Đức Thánh Tản Viên hay còn được biết đến là vị thần Sơn Tinh trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh nổi tiếng trong cộng đồng người Việt hiện đại. Đây là vị thánh biểu đạt cho những ước mơ, khát vọng của người dân lao động xưa về một cuộc sống ấm no, có thể chế ngự hoàn toàn thiên tai lũ lụt. Hiện nay Đức Thánh Tản Viên vẫn là vị thần được nhân dân tôn sùng và gửi gắm những hy vọng, khát khao về cuộc sống bình an, êm ấm. Biểu hiện bởi rất nhiều ngôi đền khang trang được nhân dân xây dựng tại miền Bắc Việt Nam và thường xuyên lui tới nhang khói, cúng lễ đủ đầy thành tâm.
NỘI DUNG
Đức Thánh Tản Viên là ai?
Đức Thánh Tản Viên hay còn được biết đến với nhiều danh xưng khác nhau như Vua Cha Nhạc Phủ, Tản Viên Sơn Thánh hay gần gũi nhất là thần Sơn Tinh. Ngài là một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt. Đồng thời, ngài cũng được coi là đệ nhất phúc thần của nước Việt đứng đầu tứ bất tử.
Ngài thuộc Tứ Phủ Vạn Linh tại hàng vị Đức Vua Cha cùng với Vua Cha Thiên Phủ (Ngọc Hoàng Thượng Đế), Vua Cha Thủy Phủ (Vua Cha Bát Hải Động Đình), Vua Cha Địa Phủ.
Ngoài ra, ngài còn được biết đến là cha của Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn hay La Bình Công Chúa. Việc này được đề cập rất rõ trong truyền thuyết về Mẫu Thượng Ngàn.
Theo truyền thuyết thì ngài là người cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên). Ngài linh thiêng, anh linh ứng nghiệm vô cùng. Ghi trong truyện núi Tản Viên, tác giả Lĩnh Nam chích quái có viết: “Linh khí không thể lường được, tương truyền rằng thần rất linh thiêng và ứng nghiệm.”
Về xuất thân của Đức Thánh Tản Viên, có rất nhiều nguồn giải thích cho nguồn gốc nhà ngài.
- Tản Viên Sơn Thánh là con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Theo đó, ngài là một trong năm mươi người con được chia về biển. Sau đó, ngài đi qua cửa biển Thần Phù, ngược sông Hồng mà về. Thấy núi Tản Viên cao vời, xinh đẹp tú lệ ba hòn sắp thẳng đứng. Lại thêm dân chúng quanh vùng cực chất phác, đôn hậu nên người đã làm một đường thẳng như kẻ chỉ từ làng Bạch Phiên Tân mà đến phía nam núi Tản Viên, đến Uyên Đông, lại đến Nham Tuyền là chỗ nguồn khác, rồi đi lên núi Thạch Bàn đầu non Vân Mộng mà ở. Những vết chân ấy, người đời sau lập đền thờ phụng, hạn thì đảo, lụt thì cầu, ngự hỏa tai ngăn đại hạn mau hơn tiếng vang cực kỳ linh ứng.
- Tản Viên Sơn Thánh là ba anh em. Theo đó, nói tới Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi hay còn được gọi là Tam Vị Đại Vương Quốc Chúa Thượng Đẳng Thần gồm Sơn Tinh, Cao Sơn và Quý Minh. Hiện ba đền Thượng, Trung, Hạ tại Ba Vì đang thờ phụng Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
- Tản Viên Sơn Thánh là người thật. Theo quan niệm dân gian tại các làng trong truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ), kết hợp ngọc phả đền Lăng Xương thì Thánh Tản Viên là người tên Nguyễn Tuấn. Ông là con trưởng của Nguyễn Cao Hành và bà Đinh Thị Đen ở đạo Sơn Tây nay là Phú Thọ. Ông nhận bà Ma Thị Cao ở núi Ngọc Tản làm mẹ nuôi. Từ đây, ông trở thành người cứu độ nhân dân có phép thần thông biến hóa, có văn võ song toàn và trở thành vị thần núi Tản Viên. Sau này khi Hùng Vương kén rể cho con gái Ngọc Hoa, ông chọn Sơn Tinh – Nguyễn Tuấn.
Truyền thuyết Đức Thánh Tản gắn với những công lao to lớn truyền lưu ngàn đời
Công lao to lớn nhất của Đức Thánh Tản phải kể đến việc ngài cùng với Vua Cha Bát Hải Vĩnh Công Đại Vương phối hợp cùng đánh tan giặc ngoại xâm khỏi bờ cõi Văn Lang. Khi đó, Vĩnh Công Đại Vương chặn mũi công của giặc trên biển và Tản Viên Sơn Thánh thì chặn mũi công của địch trên đường bộ, đánh tan quân giặc chỉ trong 3 ngày.
Chi tiết đại công Vĩnh Công Đại Vương đánh tan quân xâm lược trên 8 cửa biển lớn.
Thời bình, ông lại đi khắp nơi dạy nhân dân làm ăn sinh sống.
Ông dạy dân Ba Vì biết làm ra lửa bằng ống giang già, biết săn bắn với kế làm hầm gài tên căng lưới, dạy dân Quốc Oai biết gieo hạt trồng lúa, dạy dân ven sông Hồng biết làm lưới kéo vó, dạy dân chúng biết võ nghệ đánh giặc bảo vệ tổ quốc, dạy nhân dân biết dệt vải hát ca. Hiện nay tại nhiều ngôi đền, người dân vẫn tổ chức lễ hội mô phỏng lại cách thức làm ăn mà Sơn Tinh đã dạy cho nhân dân, đồng thời tỏ lòng biết ơn vị thánh đã giúp cuộc sống nhân dân ấm no hơn.
Một số sắc phong của Tản Viên Sơn Thánh
Với những công lao to lớn với nhân dân và đất nước, Tản Viên Sơn Thánh được rất nhiều triều vua ban sắc phong thể hiện sự tôn kính trọng vọng.
Vua Trưng Vương (Trưng Trắc) sắc phong ngài là :”Tản Viên sơn quốc chúa đại vương Dực bảo Trung hưng Thượng đẳng thần.”
Vua Trần Nhân Tông sắc phong ngài là “Hữu thánh hưng quốc hiển ứng vương”.
Vua Tự Đức phong ngài là thượng đẳng tối linh thần
Ngoài ra, tại đền Và Sơn Tây vẫn còn lưu trữ 18 bản sắc phong khác dành cho Đức Thánh Tản thuộc nhiều đời vua khác nhau. Trong đó có 17 bản chính có dấu ấn.
Ngoài ra, vị thần Tản Viên Sơn Thánh thần thông quảng đại không chỉ sống trong lòng người dân mà ngài còn xuất hiện cả trong những tác phẩm văn học được miêu tả với những từ ngữ trân quý nhất. Những tác phẩm viết về nhà Ngài gồm có “Việt điện u linh”, “Lĩnh Nam chích quái”, “Thánh Tông di ký toàn thư”, “Thánh Tông di ký toàn thư”,…
Tản Viên Sơn Thần
Đệ nhất phúc đẳng thần
Đệ nhất bách thần
Thượng Đẳng tối linh thần
Nam thiên thánh tổ
Ngài là vị thánh anh linh, tiêu biểu cho người anh hùng dân tộc chống ngoại xâm cùng nhân dân khống chế thiên tai, lũ lụt.
Núi Tản Viên – linh thiêng ngọn núi thuộc truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên
Núi Tản Viên hay núi Ba Vì được cho là ngọn núi nắm giữ đường long mạch quan trọng. Đồng thời, đây chính là ngọn núi xuất hiện trong truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh khi “Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu thì Sơn Tinh dâng núi cao bấy nhiêu”. Khu vực trong lời kể được cho là ngọn núi Ba Vì.
Ca dao cũng truyền tụng về núi Ba Vì: “Nhất cao là núi Ba Vì, thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”.
Thực tế, núi Ba Vì thấp hơn núi Tam đảo tới gần 300m nhưng dân gian vẫn coi ngọn núi này là cao nhất địa giới. Bởi Ba Vì là nơi ngự của Thần Núi Tản Viên nên trong tâm thức người Việt, không ngọn núi nào sánh bằng với núi Ba Vì.
Ở ngôi đền cổ thờ vị thần núi cũng có câu đối: “Châu hình đẩu tiễn thiên hoành không/ Hạo khí quan mang vạn cổ tồn”.
Dịch là “Dáng hình sừng sững ngang trời rộng/Hạo khí mênh mang thuở còn”.
Tại quyển “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi cũng trích dẫn “Núi ất là núi tổ của nước ta đó.” Thể hiện vị thế cùng với tầm quan trọng bậc nhất của ngọn núi Tản Viên Ba Vì.
Ngày nay, dọc dãy núi Ba Vì là hệ thống đền thờ Tản Viên Sơn thánh trấn 4 hướng đông tây nam bắc:
Tây Cung gồm đền Trung và đền Hạ.
Nam Cung là đền Ao Vua.
Đông Cung là đền Và Sơn Tây.
Bắc Cung là đền Thính ở Vĩnh Phúc.
Ngày nay, núi Ba Vì trở thành địa điểm thu hút khách du lịch cả trong và ngoài nước. Cùng với hệ thống đền thờ phong phú cùng phong cảnh hoang sơ tuyệt đẹp sẵn có, Ba Vì trở thành khu du lịch sinh thái nghỉ dưỡng hấp dẫn mọi du khách là điều vô cùng dễ hiểu.
Cần chú ý gì khi sắm lễ Đức Thánh Tản Viên
Từ xa xưa, nhân dân đã luôn tin thờ và duy trì tục lễ Đức thánh Tản. Trong tâm thức, con hương luôn kính cẩn chấp bái, chấp niệm tin rằng Đức Thánh Tản luôn phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, cuộc sống bình an, an ổn. Bởi vậy mà mỗi năm luôn có hàng ngàn con hương tín thờ và thường xuyên ghé thăm đền thờ đức thánh để dâng lễ bạc tâm thành lên ban thờ thánh. Đông nhất là vào những ngày lễ tiết lớn trong năm như ngày đầu xuân năm mới hay mùa lễ hội tại đền. Mỗi con hương, đệ tử đến đền lại mang theo một mâm lễ đủ đầy hương hoa, phẩm quả mong ngài chứng giáng phù hộ độ trì cho gia quyến bình an, khỏe mạnh, có tài có lộc, làm ăn thuận lợi, tốt tươi.
Một mâm lễ dâng ban thờ Đức Thánh Tản Viên gồm một đĩa hoa, một đĩa quả gồm nhiều loại quả, cơi trầu, quả cau, cút rượu, xôi thịt, thẻ hương, giấy tiền và một cánh sớ.
Ngoài những thức lễ như trên, nếu bạn thành tâm muốn dâng cúng ban thờ thánh một lễ vật đẹp, sang trọng lại có thể để được lâu dài không bị hỏng mốc thì hãy tham khảo những mẫu Oản Tài Lộc. Oản Tài Lộc có thể được lâu với thời gian khoảng 6 tháng được trang trí tỉ mỉ, trang trọng rất thích hợp đặt trong không gian cúng lễ.
Oản dâng Đức Thánh Tản Viên thường là oản màu xanh. Oản được khuyến khích dâng tiến là loại Oản Tài Lộc nghệ thuật được đầu tư, trang trí cách điệu đẹp hơn oản đường truyền thống và cũng mang nhiều ý nghĩa tốt lành hơn. Lọai oản đặc biệt như vậy được gọi là oản ngọc, để mua được loại oản như vậy, bạn nên liên hệ tới Oản Cô Tâm.
Oản Cô Tâm là đơn vị chuyên cung cấp Oản Tài Lộc nghệ thuật nhiều màu sắc, hình dáng, được trang trí cách điệu phục vụ nhu cầu cúng lễ Tứ Phủ của mọi con hương, đệ tử trên khắp cả nước. Ngoài Oản Lễ Tứ Phủ, chúng tôi cũng cung cấp đến khách hàng Oản Lễ Phật, Oản Lễ Gia Tiên và Oản Lễ Thần Tài cực bắt mắt và lộng lẫy biểu trưng cho tài lộc, may mắn sẽ đến với gia chủ, cực thích hợp để dâng lễ trong những ngày lễ tiết lớn nhỏ trong năm.
Đền Thờ Tản Viên Sơn Thánh
Đền thờ Thánh Tản Viên được nhân dân thờ tự tại rất nhiều ngôi đền tại khu vực dãy núi Ba Vì nổi tiếng nhất là các ngôi đền Thượng, Trung, Hạ gọi chung là đền thờ Tản Viên Ba Vì, đền Và tại Sơn Tây, đền Tranh và đền Thính tại Vĩnh Phúc, đền Lăng Sương tại Phú Thọ.
Theo thần tích tại Đền Và thì cung Trung và cung Hạ là nơi cầu đảo, tế lễ. Đông Cung là nơi “nghe tâu bày các việc”. Bắc Cung là nơi nghỉ ngơi.
Đền thờ Tản Viên (Ba Vì)
Địa chỉ: xã Minh Quang và Ba Vì, thuộc huyện Ba Vì
Đền thờ Tản Viên Ba Vì là tên gọi chung của hệ thống ba đền thờ Thượng, Trung, Hạ lần lượt nằm tại đỉnh, lưng chừng và chân núi thờ thần Tản Viên Sơn Thánh.
Xem chi tiết cách dâng hương cúng lễ tại đền thờ thần Tản Viên Ba Vì
Đền Thượng hay còn gọi là chính cung Thần Điện nằm tại khu vực đỉnh núi cao 1227m so với mực nước biển. Theo các truyền thuyết và ngọc phả có liên quan thì đền Thượng có từ thời An Dương Vương. Là ngôi đền cổ kính, được nhân dân lập từ xa xưa.
Đền Trung còn gọi là Trung Cung tọa lạc tại lưng chừng núi Ba Vì. Tại chính cung đền thờ bà Ma thị Cao Sơn – người mẹ nuôi của Tản Viên Sơn Thánh, đồng thời là vị thần chủ cai quản núi Tản Viên. Đây là ngôi đền có vị thế đẹp nhất trong hệ thống các ngôi đền thờ thần Tản Viên.
Đền Hạ còn được gọi là Tây Cung. Ngôi đền được xây dựng dưới chân núi Tản, ngay bên bờ sông Đà. Theo ngọc phả ghi lại tại đền Và thì đầu thế kỷ 18 người dân đã xây dựng đền Hạ.
Khách hành hương khi dâng hương tại ba ngôi đền có thể kết hợp việc cúng lễ với du lịch thắng cảnh khu vực vườn quốc gia Ba Vì nổi tiếng.
Khu di tích đền Và (Sơn Tây)
Địa chỉ: thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây
Đền Và là ngôi đền nổi tiếng nhất trong hệ thống đền thờ tản viên sơn thánh ở Hà Nội. Năm 1964, đền Và được xếp hạng di tích lịch sử văn cấp quốc gia.
Theo truyền thuyết, đền Và là hành cung của Tản Viên Sơn Thánh mỗi lần người đi tuần thú hay du ngoạn.
Đền Và lưu giữ trong mình rất nhiều giá trị quý giá như 5 bản thần tích của Tản Viên Sơn Thánh, 18 đạo sắc phong, 47 đôi câu đối được chạm khắc công phu trên vách cột, cùng hoành phi gỗ, đá. …
Tại hậu cung đền thờ Tam Vị Đức Thánh Tản gồm Thánh Tản Viên, Quý Minh và Cao Sơn.
Ngôi đền được truyền tụng là đền thiêng, vô cùng linh ứng lời thỉnh cầu của con hương.
Lễ hội đền Và được tổ chức vào ngày 13 – 15 tháng giêng, cứ 3 năm lại tổ chức một lần lễ to. Lễ hội đền Và được đánh giá là lễ hội lớn nhất, đặc sắc nhất xứ Đoài.
Đền Tranh và đền Thính (Vĩnh Phúc)
Địa chỉ đền Tranh: xã Trung Nguyên, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc
Địa chỉ đền Thính: xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc
Hai ngôi đền thờ thần Tản Viên đều được xây dựng gần nhau thuộc huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc.
Hai ngôi đền đều có lịch sử xây dựng từ xa xưa, đã trải qua nhiều lần tu sửa tôn tạo nên đền rộng hơn và khang trang hơn nhiều. Chủ yếu các nét kiến trúc trong đền nghiêng phần nhiều về kiến trúc nghệ thuật thời nhà Nguyễn.
Mặc dù được xây dựng gần nhau những mùa lễ hội tại hai ngôi đền này được tổ chức không giống nhau.
Tại đền Tranh, người ta tổ chức lễ hội vào ngày rằm tháng Giêng, ngày 6/2 và ngày 6/8 âm lịch. Nhân dân tại đền Tranh tổ chức lễ hội đền theo hình thức diễn xướng, nhắc lại công lao đức thánh ngài và tiến hành nghi lễ gieo hạt, cầu mưa thuận gió hòa.
Với cùng hình thức tổ chức các nghi lễ trong hội, lễ hội đền Thính được tổ chức vào mùng 6 đến mùng 9 tháng giêng âm lịch. Hội làng tại đây bao gồm nhiều trò chơi dân gian như đấu vật, chọi gà, kéo co, …
Tìm hiểu chi tiết về kiến trúc và nghi thức lễ hội đền Tranh và đền Thính
Đền Lăng Sương (Phú Thọ)
Địa chỉ: xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ
Nếu bạn đã biết đến hệ thống đền Và Sơn Tây, đền Tranh, đền Thính Vĩnh Phúc thờ thần Tản Viên thì không thể không biết đến đền Lăng Sương tại Phú Thọ. Theo cuốn ngọc phả, đền Lăng Sương mới là nơi phát tích của thánh Tản Viên. Những ngôi đền còn lại đều chỉ là đền thờ vọng.
Theo ghi chép tại đền, đền Lăng Sương được xây dựng năm 1011 vào thời nhà Lý. Khu vực xây dựng đền cũng được đặt trên nền móng nơi thánh Sơn Tinh sinh ra và lớn lên. Bởi vậy, ngôi đền được rất nhiều con hương, đệ tử tứ phương lặn lội đường xa tìm về để dâng lễ, cúng bái hàng năm.
Đền Lăng Sương tổ chức lễ hội vào ngày 14 – 16 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Trong đó, ngày 15 là ngày lễ chính. Song song với hoạt động tế lễ, nhân dân thập phương cũng thường tập trung về đền vào ngày lễ hội bởi theo quan niệm, ngày linh thiêng nhất, tốt nhất để dâng hương cửa đức ngài là ngày lễ hội.
Dâng lễ đền Lăng Sương cần chú ý gì?
Chầu Văn Đức Thánh Tản Viên
Bản 1:
Nhạc Phủ Thánh Đế Văn
Động sơn trang thượng ngàn thánh phủ
Đức Tản Viên đấng chủ sơn lâm
Nổi cơn gió cuốn ầm ầm
Di sơn đảo hải cứu dân thoát nàn
Cõi Nam bang nhờ ơn đại thánh
Đất Sơn Tây, Tản Lĩnh ngất cao
Đôi bên tả hữu bộ tào
Tam thập lục động ra vào quản cai
Chốn sơn lâm muôn loài cầm thú
Nhờ thánh ân Nhạc Phủ thần vương
Lại thêm bát bộ sơn trang
Dời non chuyển núi phép càng thần thông
Nay ngưỡng trông thánh vương soi xét
Độ thanh đồng khắp hết gần xa
Độ cho khang thái cửa nhà
Cây tài nhánh lộc nở hoa bốn mùa
Khắp thôn bản gió mưa hòa thuận
Cõi lâm sơn ngàn mận ngàn mơ
Đỉnh non gió thổi phất phơ
Suối reo thác đổ tiếng tơ chạnh lòng
Chúng đệ tử một lòng thành kính
Tiến văn trình thỉnh thánh giáng lâm
Chữ rằng thánh giáng lưu ân
Sơn trang lưu lộc thiên xuân thọ trường.
Bản 2: Tản Viên Sơn truyện cổ tích
Trước bày Đại Việt Hùng Vương
Dân an đệm chiếu bốn phương thuận hòa
Đâu đâu hát thái bình ca
Phong đăng bách cốc nhà nhà đủ no
Có người là con học trò
Tên là Nguyễn Tuấn thế lo làm tày.
Phòng văn án tuyết đêm ngày
Gạo châu củi quế thiếu rày lấy đâu
Đọa tài khắp một tay thâu
Sớm lo chẳng đủ lấy đâu ngày dùng
Tuổi vừa được chốn xuân nồng
Thất gia chưa có dụng phòng chống nao
Lên chơi rừng quế nguồn đào
Giang sơn chốn chốn thấp cao mọi ngàn
Chim kêu vượn hót làm đàn
Có nơi là Tản Viên Sơn hiệu lành.
Bốn bề non nước cực thiêng
Dẫu có thụy khí anh linh lạ thường
Cảnh thanh kỳ lạ khác thường
Non nhân nước trí bốn phương hữu tình.
Nhuộm tươi chân ngắt mầu xanh
Dương bằng một cảnh hồ thanh ngất trời
Hình hô một cảnh lâu đầi
Đỉnh cao đột ngột chống trời một phương.
Quần sơn chầu lại nên hàng
Thế lo đất phức ắt đường nơi đây.
Cảnh thanh đắc ý mừng thay
Lập làm lều tiện tháng ngày náu chơi.
Lâu la chiếu đất màn trời
Làng Nhan cửa Khổng chẳng đời chí xưa.
Sơn hào song viết thừa lưa
Thói quen nên kẻ tiều phu trí mầu
Ngày ngày bẻ được củi mau
Xăm xăm làng hạnh gạo châu đổi dời.
Đèn trăng quạt gió vẫn chơi
Hôm mai no đủ cầu gì thế gian.
Một ngày lên đỉnh Cao sơn
Nhìn xem sắc mộc thiên bạn lạ dường.
Cây cao chót vót sơn trường
Đàn lên tán lục rợp trương lạnh lùng.
Tần Hoàng xưa có sắc phong
Ơn vua chức trọng phù tùng uy nghi.
Hương xuân ngát nức tư bề
Nguyễn Lang thấy lạ đòi khi lo lường
Chữ rằng: trừ mộc khử ương
Tay cầm thiết phủ chém thương tồi tàn.
Ngả cây tiếng dậy lâm san
Chuyển lên kinh khủng thế gian hãi hùng.
Nguyễn Lang chẳng chuyển hình dung
Để khô làm củi dình phòng bán mai.
Ai hay là sự bởi trời
Bỗng đâu xui khiến có nơi hộ trì.
Thấy sao Thái bạch tử vi
Thần thông biển hiện một khi nên người.
Một ông lão tử tám mươi
Tay cầm tích tượng bởi trời sấy sa.
Thấy cây tươi tốt dầm dà
Nguyễn Lang hoài chém tồi pha thương này
Xăm xăm tích trượng cầm tay
Gõ vào cây ấy một giây lạ dường
Tự nhiên cây ngọn hồi dương
Dựng nên cây tốt tán trường xanh rờn.
Ngày sau Nguyễn Tuấn lại lên,
Thấy cây vặc vặc vẹn toàn như xưa.
Gẫm rằng sự lạ qua ưa
Cây này đã ngả hôm qua tan tành.
Một giờ ngọn lại tươi xanh
Thấy âu là có thần linh hộ trì.
Cây sao quái gở nhiều bề
Sự thì đã lạ thấy thì chẳng ngoa.
Tay cầm phủ việt lại pha
Chém cây ấy xuống ngã ra tan tành.
Một bên đứng nép hòa rình
Thấy ông Thái Bạch kim tinh đến gần
Liền hối tích trượng chân nhân
Gõ vào cây ấy chuyển vần lạ bao.
Dựng nên đột ngột xanh cao
Cây nên vặc vặc tơ hào chẳng ngoa.
Tán xanh cây tốt dầm dà
Thấy ông Thái Bạch tuổi già lu khu
Thấy trời có ý tựa cho
Nguyễn Lang thấy ý liền lo lời này.
Ắt là Trời, Phật tới đây,
Đè ông liền cướp được rày mừng sao.
Phật trên một tiếng cả cao:
“Kìa mày lấy gậy thì tao càng mừng
Đây hòa cứu tử độ sinh
Tự nhiên phúc đức bởi mình hòa ra.
Cứu dân độ quốc gần xa
Công cao đệ nhất người ta trọng dùng”.
Nói thôi dạy phép thần thông
Bụt liền thoắt biến về trong bảo đài.
Ác vàng xế bóng non đoài
Nguyễn Lang trở lại Sơn trai chốn nhà.
Ngày sau gánh cửi bên hà
Mục đồng kính nhưỡng âu ca chơi bời.
Vo ve tiếng địch vừa vui
Đã không thì nói vui chơi đêm ngày.
Nam thanh nữ tú làm bày.
Khi ca khi nói khi cười khi không.
Bảo nhau đã nức dậy đường
Hò reo tập trận Đinh Hoàng cờ lau.
Ngựa bò cờ nón voi trâu
Kèn loa tiếng trống đâu đâu dậy đường
Thuở ấy Thủy Tề Long vương
Có một nam tử là chàng Tiểu Long.
Phù sinh thơ dại trẻ trung
Rắn vừa đội lốt chơi rông lạc đường.
Trường giang tới bãi Tiêu Tương,
Trẻ thơ bài ấy lòng càng muốn coi.
Miên man lễn bãi đầu doi
Rắn liền thấy trẻ vui chơi lại gần.
Thế gian ai biết thủy quân
Làm chi ai biết thiên nhân Thủy Tề.
Tay cầm dùi mít liền bè
Đánh Tiểu Long chết tức thì bảo nhau:
“Đánh rắn đánh cho dập đầu
Kẻo hòa chàng ấy ngày sau trả thù.”
Để lên bãi cát nằm co
Tiểu Long hồn phách bơ vơ rụng rời.
Tình cờ đem để có nơi
Nguyễn Lang đến đấy ngược xuôi bao giờ.
Đông tây vắng vẻ bằng tờ
Bãi non tới xuống trời vừa tà dương.
Rắn liền nằm bãi Tiêu Tương
Như rồng uốn khúc, tới nhường lạ thay.
Nguyễn Lang tích trượng cầm tay
Gẫm rằng ta thử gậy này thấy nao.
Gậy thiên thần mới cho tao,
Thiêng liêng nhường ấy nhẽ nào được hay.
Ngày xưa người chữa được cây
Bây giờ ta chữa rắn thế nao.
Bèn cầm tích trượng gõ vào
Thần thông sao khéo lạ nào tự nhiên.
Rắn lại trương cất đầu lên
Hoàn hồn uốn khúc lại yêu vẹn toàn.
Cúi đầu quỳ lạy tạ ơn
Tiểu Long trở xuống thủy tiên tức thì.
Thần thông phút đến Thủy tề
Vua cha coi thấy lòng thì mừng thay:
“Con sao ba bốn hôm nay
Tìm hoài chẳng thấy là hay nơi nào?”
Tiểu Long lén lén tâu vào:
“Đi chơi lạc đến ngòi Tào thương thay.
Lân la đến chốn Sơn Tây
Bãi Tương ngàn Sở chốn nay hữu tình.
Một nơi là một khoe thanh
Giang sơn thành thị dường tranh mỹ mùi.
Cảnh kỳ dư ngất xuân đài
Chẳng ngờ là chốn ấy người phàm gian.
Chơi xuân đồng mục có đàn,
Thấy vui tôi muốn lên xem tới gần.
Lối thiêng trái dáng chân nhân
Nó ngờ là rắn hại dân bấy chầy,
Trẻ trung thờ dại chẳng hay
Nó liền đánh chết bỏ thây bên ngàn.
Có người là Tản Viên Sơn
Tên là Nguyễn Tuấn phép tiên ai tầy.
Thần thông tích trượng cầm tay
Hoàn sinh của Bụt ấy nay bao giờ.
Tài hiền tướng mạnh qua ưa
Chữa tôi lại sống tỉnh xưa lại hoàn.
Mới hay phúc bởi hoàng thiên
Rày tôi về tới Thủy tiên chốn nhà.
Lại xem thấy mặt mẹ cha”.
Long Vương thấy nói xót xa trong lòng.
Mừng con mở tiệc đền rồng
Thỉnh mời Nguyễn Tuấn đến cùng tạ ơn.
Sai tam bộ sứ Thủy tiên,
Tiểu Long hiển hiện cùng lên tới nhà.
Tiểu Long quỳ lạy trình qua:
“Tôi la thủy tộc kênh hà Long Vương.
Mục đồng ngày ấy làm thương
Ơn nhờ chữa được nghĩa càng cảm thay.
Cha tôi thỉnh xuống một giây
Đền rồng bẩm tạ ơn nay cho chàng.
Dầu cha cho bạc cho vàng
Sau là tiền vải vóc càng nhiều thay.
Thái hoa thung thúc đã đầy
Của ấy chẳng tày sách ước quốc gia.
Ước chi được nấy chẳng ngoa
Thiên vàn xin đức vua cha cho về”.
Dặn dò mọi nỗi vân vi
Đem nhau vừa xuống Thủy tề Long cung.
Vừa khi vua ngự đền rồng
Thành vàng báu ngọc lạ lùng nhiều sao.
Khắp đầy đài các cung cao.
Phủ lầu tượng vị đền cao ngàn tầng.
Long Vương cao ấy phán rằng:
“Người tiên thói ở ra lòng thế bay”
Tiểu Long được đội ơn này
Chữa tôi ngày trước, khi nay vừa hồi.
Nhân duyên ngõ nhẽ đôi người
Kết làm huynh đệ chưa đời chí xưa.
Vàng thì muôn nén lấy đi,
Bạc thì muôn gánh thái hoa vô vàn.
Lưu li hổ phách hô san
Trân châu mã nã đầy bàn mười mâm.
Báu yêu thức tốt dư trăm
Khiến người đưa đến sơn lâm cho chàng.
Nguyễn Lang vái tạ từ nhường:
“Cửa vua châu báu vàn muôn kênh hà.
Song le tôi khí chật nhà
Tôi xin sách ước quốc gia bấy chầy.”
Long Vương lòng chẳng thiết thay
Nửa cho, nửa lại tiếc rày chẳng cho.
Tiểu Long đến trước tâu vua:
“Tôi xin sách ấy vua cho ơn người”.
Long Vương nghe nói ngùi ngùi
Tố thư một cuốn đưa nay cho chàng.
Nguyễn Lang khấp khởi lòng vàng
Tức thì vái tạ Thánh hoàng trở ra.
Tiểu Long vừa bước đưa qua
Trượng phu bốn bề một nhà anh ba
Dặn dò sau trước một bề
Đầu đào báo lý chưa hề làm chi.
Giang sơn đối mặt bái từ
Người lên non Tản người về Thủy cung.
Nguyễn Lang được phép thần thông,
Ước chi được nấy trong lòng mừng thay.
Ước nên đài các đông tây
Ước nên châu báu chưa đầy chân chan
Ước nên thiên hạ bình an
Ước nên bốn bể phượng loan một nhà.
Ước nên phong vũ nhuận hòa
Được mùa bách cốc nhà nhà đủ no.
Ước nên thọ khảo muoont hu
Phúc nhà con cháu phúc nhà tiên ông.
Ước chi được nấy lạ lùng
Như trong ước muốn, như lòng ước xưa.
Thuở ấy Thủy tề giang hà
Ngường con lên trị quốc gia bấy chầy.
Sơn quân thấy vậy mừng thay
Bọn xưa chẳng phụ thường hay đi về.
Thuở ấy Hùng vương cung phí
Sinh được con gái tên là Mỵ Nương.
Tuổi vừa mười bốn phi phương
Tinh thần ngọc đúc Thọ Dương ai tày,
Má hồng đa ngọc hây hây.
Ngờ thần tiên nữ xuống rày đài dương.
Nương long chúm chím tuyết sương
Tiết mai dường thuở thường thường mới đây.
Tốt thay điệu điệu lưng ong,
Mình thì chật bức quần hồng vừa vui.
Thong dong ngọc thốt miệng cười
Chân đi thoắt thoắt khoan thai dịu dàng.
Nết na tư chất khác thường
Hình dung yểu điệu nhan hồng thuyền quyên.
Càng nhìn càng một hữu duyên,
Hà sơn khả vi hương tiên khôn bằng.
Da ngà tóc phượng khác hằng
Thế gian ai thấy là chăng phải lòng.
Một nơi là một lạnh lùng
Ngọc lành cao giá đợi cùng chốn sang.
Tiến đồn dậy khắp lân bang
Đã nên một gái mọi dường con cha.
Đầu cài trâm hốt ngọc hoa
Của bằng các bạn hằng nga tốt lành.
Tiến đồn mọi quận mọi thành.
Thục vương muốn kết ả anh một nhà.
Song le chẳng gả chồng xa
Hùng Vương làm hội quốc gia bầy chầy.
Khắp hòa thiên hạ đông tây
Mặc cho con kén ai nay có tài.
Dậy dường đồn nức mọi nơi
Trông xem mừng gặp duyên trời dẩy dun.
Ai ai cũng đến cửa son
Mỵ Nương hợp ngọc lòng còn hồ nghi.
Chưa lòng kết tóc phu thê
Thế gian cùng đến đều thì ước ao.
Long Vương lên đỉnh án cao
Tìm chàng họ Tuấn kết giao bấy chầy,
Đôi người khấp khởi mừng thay
Đền cao gác rộng hây hầy ỷ la
Tiệc bày mỹ vị xướng ca
Nghênh hôn mừng rỡ thật là vui thay.
Chả lân thịt phượng khắp bày
Mâm đầy ngọc thực, chén đầy quỳnh tương.
Vang lừng một đám phong quan
Sơn Tinh cùng chúa Long Vương khuyên mời.
Hùng Vương làm hội tháng trời
Tiến đồn vang nức đòi nơi xa gần.
Long Vương cùng chúa Sơn quân
Đôi vua nghe tiếng mười phân ra mừng.
Vội vàng mở tiệc tưng bừng
Đôi vua về núi tếch rừng một khi.
Trường An thẳng tới làm kỳ
Thấy Hùng Vương hội nhiều bề mừng thay.
Xăm xăm tới trước tâu bày:
“Đôi tôi kén rẻ phen này xứng chăng?
Chúng tôi tú pháp tài năng
Ngõ đây Nguyệt Lão hợp trăng tình cờ”.
Long Vương phun nước liền mưa
Sơn quân đứng núi một giờ mọc lên.
Thuở ấy thủy tộc thủy tiên
Trong lòng lấy hột xảy liên từ đình.
Đặt bày muôn khóm thụy tinh
Một dây liền mọc lá cành nở ra.
Nên cây tươi tốt dầm dà
Trăm hoa đua nở dà dà cành xanh.
Thuở ấy họ Tuấn Sơn quân
Tây cầm phủ việt lấy cành chém cây.
Đòi nơi lá rụng hoa rơi,
Lại lấy tích trượng cầm tay vội vàng.
Gõ vào ngay cây cam đường
Tự nhiên cây lại hồi dương tức thì.
Quả hoa lại kết liền chi
Cây nên vặc vặc tư bề hồi dương.
Chồi lá lá ngọc cành vàng
Hùng Vương xem thấy lòng càng mừng thay.
Đôi người thi phú đều hay
Hùng Vương mới nói lời này phán ra:
“Cây cao hòa có một hoa
Duyên ai nấy gặp biết hòa làm sao
Đôi người dạ cũng đều yêu
Tài khôn nhường ấy biết nào phụ ai
Song le duyên phận mặc trời
Lòng lo lưỡng lự mở lời ấy khôn.
Nhân vì nhà có một con.
Bây giờ dụng sự kết hôn gả chồng.
Mặc ai sính lễ việc dùng
Đặt bày trước mặt sân rồng đến sơ
Ấy là phận đẹp duyên ưa
Nhân duyên mặc lão tình cờ mặc ai.
Đôi vua bái tạ trước ngai
Về nhà sắm sửa sính tài kíp thay.
Sơn quân sách ước cầm tay
Ước nên vàng bạc của đầy dư muôn.
Trâu bò gà lợn đến tuôn
Sẵn sàng bày đặt trước đền hư không.
Mời khuyên yến ẩm đền rồng
Mỵ Nương trước lấy về cùng Tản Viên.
Long Vương sau đến lỡ tin
Thẹn thò xấu mặt lòng càng hận thay.
Bèn liền chốc ý phân tây
Ơn xưa chẳng đoái lại hay oán thù.
Thời vừa tháng bảy đầu thu
Kim phong hải khẩu gió mưa bay dời.
Tiết sang vừa chịu lệnh trời
Cầm quyền Bạch đế đòi nơi lạ dường.
Thuở ấy Thủy Tề Long Vương
Hận vì chẳng được Mỵ Nương kết nghì.
Vãng lai tin tuyệt đi về
Giao lân nào có ỏ ê tới lòng.
Nẻo hòa dạ khác thì vong
Long Vương sắm sửa thủy cung binh quyền.
Hận rằng lên đánh Tản Viên
Chư quân eo óc nước dâng lên ngàn.
Kình nghê sấu vực giương vây
Rắn rồng uốn khúc rồng bay một đoàn.
Nước dâng lai láng đầy ngàn
Mưa tuôn bão giật sấm ran đùng đùng.
Nhị hà dòng nước mênh mông
Kình nghê thổi gió rắn rồng phun mưa.
Đua nhau thừa tướng trường xà
Miết lân ngư trượng kể dư muôn vàn.
Giương vây vùng vẫy tiến ngàn
Uy ta điện chớp sấm ran lôi đình.
Tam đầu cửu vĩ tiên binh
Đến Từ Liên huyện sự tình nghỉ ngơi.
Thấy bà lão mẫu tốt tươi
Một mình xuống tắm thửa nơi giang bà.
Long Vương thử triệu niên nga
Không dưng bắt lấy lão bà thảm thương.
Chẳng ngờ phải mẹ vua Chèm
Ra đi đến Bắc trấn biên hòa về.
Mình cao nghìn trường chín ghê
Theo xuống hòa tắm thông tri đâu là.
Bởi về thấy rằng vắng mẹ già
Chăng ngờ thủy tộc bắt hòa chăng thương.
Ông Chèm báo oán Long Vương
Lưới giăng ngăn khúc bến giang đón về.
Thuở ấy Long tộc Thủy tề
Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.
Sơn quân vùng chúa Thủy tiên
Đôi vua ra trận ấy liền bảo nhau:
“Ấy vua Thủy tộc đi đâu
Mặt trăng mặt vực thấy nhau chẳng chào.
Hay là chàng có lòng nào
Đem quân rồng rắn lên ngàn làm chi?”
Thưa rằng: “Bởi vua Ba Vì
Lừa nhau làm sự vô nghì trước sau.
Hơn lòng lấy cướp vợ nhau
Chăng vì bầu bạn dạ hầu bất nhân.
Thấy chàng làm chúa Sơn quân
Ra lòng khinh bạc mười phần sai ngoa.
Bạn xưa sao chẳng thực thà
Cho nên thủy tộc kênh hà cất binh.
Nhọc lòng văn vũ triều đình
Cho nên lỗi đạo đệ huynh bởi người.”
Sơn quân hòa nói hòa cười:
“Đôi ta cùng đội ơn trời giáng sinh.
Chàng đã ra dạ tương tranh
Cho nên lỗi đạo đệ huynh chăng hòa”.
Ắt là sơn thủy nên xa
Sơn quân cũng chúa kênh hà tranh khi.
Sơn quân những tướng hùng uy
Khi hươu hùng hổ làm vì tiến ra.
Chư quân đối địch giang hà
Hươu Tần Khi Sở rày đà nên công.
Long Vương đội lấy lốt rồng
Phun mưa thổi gió đùng đùng bốn phương.
Phong vân một trận lạ dường
Kình nghê sấu vực quân càng nhiều thay.
Cá mừng gặp hội rồng mây
Nhẩy qua cửa Vũ một giây nên rồng.
Đua nhau những trí anh hùng
Điểu phượng theo rồng, phù chú lấy sang.
Đôi bên giao chiến vội vàng
Non tiên hổ báo theo chàng long ngư.
Đánh nhau vừa được ba giờ
Long Vương hóa phép giục ba quân vào.
Biến làm đội rác râu tào
Nổi lên mặt nước tiến vào đột xung.
Sơn quân gẫm được sự lòng
Trúc thưa trúc mật tây đông tứ bề.
Đôi bên đều cũng uy nghi
Lạc hay chế ngự ai thì thua ai.
Bảo nhau chém rác quân tào
Đều thì có máu, đều thì lạ thay,
Trúc tên bắn phải mưa bay
Kình nghê cá rắn thác đầy làm nơ.
Vốn xưa đã được sách trời
Thủy Tinh thua xuống thuở nơi giang hà.
Ba quân hồi khải hoàn gia,
Sơn trường lấy gỗ trở ra tiến về.
Thủy quân nẻo cũ quen về
Ngày sau tức thì đến xã Từ Liêm.
Tiên binh xung lưới ông Chèm
Ai hòa chẳng được càng thêm lo lường.
Hội đồng cá rắn biên giang
Ông Chèm ra thấy lòng càng mừng thay.
Trở ơn thân mẫu khi nay
Dạng chân sông cả, đôi tay vơ quàng.
Bủa vây mọi khúc biên giang
Rắn rồng bắt lấy bật ngang vào đồi.
Long Vương mất vía rụng rời
Đường về chẳng được mặc người khôn qua.
Long Vương hải tàng còn xa,
Mở rèm cửa Hát luồn qua chu kiều,
Năm năm thường một neo chèo
Đem quân lên đánh Ba Vì Tản Viên.
Sơn quân thấy bạn chăng hiền
Lại lấy sách ước ra nguyền một giây.
Chước chi tao ước được mày
Chúa Tiên tinh ước một giây lạ dường.
Long Vương thủy tộc ba đầu
Ông Đàm ông Cột ông Lương ông Chài.
Song le mạnh chẳng qua trời
Sách thiêng chư tưởng rụng tời hồn kinh.
Tự nhiên lên núi nộp mình
Thần thông biến hóa hiện hình càng ghê.
Đều thì cá rắn chín ghê
Mình dài trắm thước uy nghi lạ lùng.
Rắn thiêng hóa phép nên rồng
Sơn Tinh thương tích trong lòng dây dây.
Nhớ xưa hai nghĩa chẳng rời
Tùy hàng bầu bạn mong hoàn lại tha.
Hiện nên tướng cả lòng xà
Cức cung bách bái nằm ca tiền đường.
Thuở ấy Sơn quân phán rằng
Tiếc thay những tướng tài hiền Long quân
Đều hay hộ quốc cứu dân
Huy hòa bốn bể xa gần được ơn.
Lại đi đánh trả Thủy tiên
Sơn quân có được hoàng thiên hộ trì.
Bản 3: Đức Thánh Tản Viên Chân Kinh
Chí tâm phục mệnh lễ
Tản Viên Sơn thánh
Sơn quốc chúa đại vương
Dực bảo trung hưng
Thượng đẳng tối linh thần
Thái Bạch, Long Vương
Ban mộc tinh, bí pháp truyền
Ban phúc, phù công danh
Cứu chúng sinh chi khổ nạn
Thần trú lưu hành, phổ tiêu bất thường
Hồng thủy phi diệt, khai trừ thủy cảnh
Thiên đạo vạn thông, cảm hữu can chi
Xá tống hỏa quan, xích thư sở cáo
Tứ sinh lục đạo. Hữu cảm tất phù
Tam giới thập phương vô cầu bất ứng
Lăng xương cốt cách ngọc tinh thần
Mang dấu rồng thiên xuống hạ trần
Thái Vĩ cùng tiên trên Thượng giới
Sinh ra Thánh Tản tại nước Nam
Nam quốc Tản Viên Sơn thánh
Hương hỏa hiển thánh
Đại bi – Đại nguyện – Địa thánh – Đại từ
Khai sơn hộ quốc
Lịch ứng thượng đẳng tối linh thần
Đệ nhất bách thần
Nam thiên thánh tổ thiên tôn.