Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn là vị thánh Mẫu thuộc hệ thống Tam Tòa Thánh Mẫu trong tín ngưỡng thờ cúng của người Việt, bên cạnh Mẫu Liễu Hạnh và Mẫu Thoải. Bà là vị thần cai quản và là hồn thiêng của vùng núi non và các cửa rừng ở khắp mọi nơi. Mẫu Thượng Ngàn bao đời dõi theo dẫn dắt con cháu đi lên. Dưới sự cai quản của Ngài, người dân mùa màng nào cũng bội thu, đợt đi săn nào cũng bắt được thú lớn. Vì vậy, nhân dân hết mực tôn kính và lập đền thờ phụng Bà ở rất nhiều nơi trên cả nước.
NỘI DUNG
Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn – Tên gọi và các sắc phong
Tên gọi khác của Mẫu Thượng Ngàn
Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn còn có các danh hiệu khác là: Sơn Lâm Công Chúa, Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên, Diệu Tín, Diệu Nghĩa Thiền sư, Lê Mại Đại Vương, Đông Cuông Công chúa, Lâm Cung Thánh mẫu, Mẫu Đệ nhị Nhạc Phủ, Bà Chúa Thượng Ngàn, Bà Chúa Sơn Trang,…
Sắc phong
- Đệ nhị thượng ngàn La Bình Công Chúa
- Lê Mại Đại Vương diệu tín thiền sư
- Chế thắng hòa diệu đại vương thượng đẳng tối linh thần
- Đệ tứ nhạc tiên Bạch Anh Quản Trưởng sơn lâm công chúa
Hình ảnh mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn theo nét vẽ tranh dân gian Hàng Trống:
Thần tích về Mẫu Thượng Ngàn
Có rất nhiều sự tích nói về về hiện thân của Mẫu Thượng Ngàn. Tuy những câu chuyện này đều không miêu tả rõ ràng về lai lịch của Bà, nhưng đều mang những ý nghĩa tôn kính gắn với những truyền thuyết của người Việt và được lưu truyền rộng rãi qua nhiều thế hệ.
Xem thêm: Sự tích Mẫu Liễu Hạnh 3 lần giáng hạ trần thế.
Thần tích Mẫu Thượng Ngàn La Bình
Theo thần tích này, hiện thân của Bà là con gái của Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh) và công chúa Mỵ Nương (con gái vua Hùng).
Bà được cha mẹ đặt tên là La Bình, từ nhỏ luôn theo cha đi đến khắp mọi miền núi non hang động để giúp dân làm ăn, chỉ dân cách chăn nuôi, xây dựng nhà cửa xóm làng,… Dưới sự quan sát và dạy dỗ của phụ mẫu cùng sự nhạy bén trong nhận thức trong những ngày đi theo cha, La Bình lớn lên trở thành cô gái đức hạnh, thông minh sáng dạ, tài sắc vẹn toàn. Cô thường đến những nơi dân chúng cần để chỉ bảo nhân dân thay cha mỗi khi cha bận việc hay không thể đi. Những lần như thế, La Bình luôn tỏ ra khí chất bản lĩnh, biết tự chủ trong giao tiếp và thành thạo trong mọi công việc. Cô được các sơn thần, tù trưởng và dân sinh vô cùng yêu quý, kính trọng và coi là người đại diện xứng đáng của Sơn Thánh. Bản thân cô cũng rất đỗi hòa hợp với mọi người và cả cỏ cây, hoa lá, chim muông xung quanh.
Khi Tản Viên và Mỵ Nương theo lệnh của Ngọc Hoàng Thượng đế về trời và trở thành hai vị thánh bất tử, La Bình cũng được phong là Công chúa Thượng Ngàn. Cô tiếp tục thay cha đảm nhận công việc dưới trần, trông coi tất cả 81 cửa rừng và các vùng núi non, hang động, trung du ở khắp mọi miền đất nước.
Khi trở thành chúa Thượng Ngàn, Bà vẫn luôn luôn tận tâm ra sức làm tròn các trọng trách của mình và không ngừng học hỏi tiếp thu. Ngoài việc dạy bảo con người như những gì cha bà đã dạy, bà vẫn luôn học hỏi kinh nghiệm từ các tù trường, sơn thần các vùng. Cũng như bảo ban các loài chim muông, cầm thú cách sống hòa hợp, an toàn và tránh được nguy hiểm thiên tai.
Không chỉ vậy, Bà còn toàn tâm toàn ý nghĩ ra cách cải tiến và hoàn thiện thêm những gì mà trước kia, cha bà mới chỉ là bắt đầu. Nhờ vậy, nhân dân không những được sống no đủ mà còn được tận hưởng cái đẹp, cái hay. Những ngôi nhà bấy giờ không chỉ chắc chắn mà còn được trang trí, chạm trổ đẹp đẽ. Ở mũi các thuyền độc mộc cũng có khắc cả hình hai đầu rồng hoa văn tinh xảo, uy nghi. Các món ăn giờ đấy không còn đơn thuần là luộc, kho mà còn được sáng tạo nhiều cách nấu mới. Công việc đồng áng đã có sự giúp sức từ các ống dẫn nước, phân phát hạt giống đi mọi nơi. Bà còn đem về thêm nhiều giống gia súc mới và hoa thơm cỏ lạ.
Ngọc Hoàng Thượng đế thấy được những điều đó đã ban tặng cho bà thêm nhiều phép thuật thần thông và Bà trở thành vị Thánh bất tử để luôn luôn gần gũi, gắn bó với những nơi có miền trung du núi non hùng vĩ cõi trần và âm phù cho sự bình yên của mọi người dân nước Việt. Nhất là trong các cuộc chiến công quân sự của các triều đại Việt Nam. Tiêu biểu là trong khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, Bà đã hóa thành bó đuốc lớn soi đường cho quân sĩ trong đêm tối và dẫn dắt tướng lính Lam Sơn đi tới vùng đất Mường Yên về cơ sở núi Chí Linh, tránh được sự bao vây của quân Minh vào đúng lúc lực lượng quân ta đang suy yếu. Bà linh thiêng đến mức chỉ quân sĩ của Lê Lợi biết được, còn quân Minh không thể nào nhìn thấy. Nhớ ơn sự phù hộ che chở của công chúa Thượng Ngàn, sau khi hòa bình được lập lai, vua phong Bà là Lê Mại Đại Vương diệu tín thiền sư. Còn nhân dân tôn xưng bà là Chúa Thượng Ngàn hay Mẫu Thượng Ngàn.
Thần tích Mẫu Thượng Ngàn Mỵ Nương Quế Hoa
Theo thần tích này, hiện thân của Bà là Mỵ Nương Quế Hoa, con gái của Vua Hùng Định Vương và Hoàng hậu An Nương. Lúc bấy giờ, Hoàng hậu mang thai công chúa đã quá kỳ mà vẫn chưa sinh nở được. Đến năm thứ ba, Hoàng Hậu đang đi trong rừng thì cơn đau đẻ ập tới, khiến bà đau quá phải vịn vào cành quế mới sinh hạ được. Nhưng không may, vì quá kiệt sức nên Hoàng Hậu đã qua đời sau khi sinh công chúa. Vua Hùng Vương hết lòng thương tiếc và đặt tên cho con gái là Quế Hoa, để ghi dấu về sự ra đời của cô. Quế Hoa từ nhỏ đến lớn một lòng luôn nhớ thương mẹ và khi trưởng thành, nàng đã đi vào rừng sâu nơi mình sinh ra để tìm dấu vết người mẹ hiền. Tại đây, công chúa cũng đã chứng kiến biết bao cảnh tượng đói nghèo cơ cực của dân làng sống trong rừng núi âm u, hoang xác khiến cô vô cùng trăn trở, thương xót. Được tiên ông đồng cảm ban cho phép thuật, nàng đã cùng 12 thị nữ ra sức cứu giúp dân nghèo và giúp cuộc sống bản làng nơi đây trở nên tốt đẹp hơn. Khi nhân dân các bản mường đã có cuộc sống no ấm, bản làng xây dựng trù phú, Mỵ Nương Quế Hoa cùng 12 thị nữ bay về trời trên đám mây ngũ sắc.
Kể từ đó, nhân dân đã lập đền thờ và tôn Quế Hoa công chúa là Chúa Thượng Ngàn. Một trong những vùng được lưu truyền về sự xuất hiện của Quế Hoa công chúa chính là vùng núi Vực Mỡ thuộc địa phận quần thể di tích Suối Mỡ tại Bắc Giang ngày nay. Sinh thời, Mỵ Nương Quế Hoa đã có công mở thác Vực Mỡ đưa nước về bản để dân trồng trọt chăn nuôi. Ngày nay, nơi đây nổi tiếng với 5 ngọn thác nước tương truyền là 5 ngón tay của công chúa luôn tuôn ra dòng nước mát tốt tươi.
Chúa Đông Cuông – Chúa Sơn Trang
Tại một số vùng, Mẫu Đệ Nhị được coi là Chúa Đông Cuông hoặc Chúa Sơn Trang. Khi Mẫu Thượng Ngàn giáng đồng tung khăn, người ta gọi đó là giá Chúa Sơn Trang hay Chúa Đông Cuông. Mẫu Đệ Nhị cũng là vị Thánh Mẫu duy nhất về giáng đồng và tung khăn, trong khi các vị Thánh Mẫu khác chỉ tráng bóng, không tung khăn.
Dâng lễ Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn cần lưu ý điều gì?
Thánh Mẫu Thượng Ngàn anh linh luôn chở che, phù trợ cho những con nhang, đệ tử nhất tâm cầu khấn. Do đó, cứ đến ngày rằm mùng một, những ngày đầu xuân năm mới hay tại những ngày tiệc Bà ở các đền thờ Mẫu, khách hành hương từ khắp nơi lại đổ về các chốn du lịch tâm linh và mang theo mâm lễ vật thành tâm.
Xem thêm: Sự tích 3 lần giáng thế của Mẫu Liễu Hạnh – những đền thờ mẫu Liễu Hạnh hiện nay
Thông thường, các con hương sắm một mâm lễ đầy đủ gồm các thức lễ chay mặn tùy tâm. Trong đó, Oản là vật phẩm được nhiều người lựa chọn để dâng lễ Thánh Mẫu cho thêm phần trang trọng và thành kính. Đồng thời oản vừa đẹp lại có thể để lâu không bị mốc hỏng, vô cùng thích hợp bày trên ban thờ Thánh Mẫu trong thời gian dài.
Với quanh oản dâng lễ Mẫu Đệ Nhị, người ta thường dâng oản xanh lá, ứng với màu sắc đại diện của Nhạc Phủ. Tham khảo mẫu Oản nghệ thuật đẹp nhất dâng Mẫu Đệ Nhị tại Oản cô Tâm như sau:
Oản Tài Lộc dâng lễ Tứ Phủ – Gia Tiên – Phật – Thần Tài là loại sản phẩm được Oản Cô Tâm đầu tư tâm huyết và dày công nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng thờ cúng thiêng liêng của người Việt để tạo nên những mẫu oản sang trọng, đẹp mắt lại hợp với văn hóa cúng lễ này. Khách hàng đặt oản thương hiệu Cô Tâm sẽ hoàn toàn an tâm về cả mẫu mã và chất lượng sản phẩm.
Đền Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Đền Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn được lập ra tại nhiều nơi trên cả nước để ghi nhớ công ơn Ngài,nhưng tiêu biểu nhất vẫn là ba nơi thờ tự gắn liền với sự hiển linh của Bà là đền thờ ở Suối Mỡ, đền Bắc Lệ.
Đền Suối Mỡ
Đền Suối Mỡ thuộc khi di tích Suối Mỡ thuộc xã Nghĩa Phương, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Tại quần thể di tích này, có ba ngôi đền Thượng, Trung, Hạ cùng thờ chung vị Mẫu Thượng Ngàn cùng truyền thuyết về Mỵ Nương Quế Hoa công chúa.
Quý khách có nhu cầu tìm hiểu về 3 ngôi đền thờ Bà và kinh nghiệm du lịch tâm linh và dâng lễ đền Suối Mỡ có thể tham khảo tại: Đền Suối Mỡ – những thông tin cần biết trước khi hành hương
Đền Bắc Lệ
Đền Bắc Lệ nằm tại xã Tân Thành, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn, tương truyền được vua Lê lập ra để ghi nhớ công ơn âm phù của Mẫu Thượng Ngàn La Bình trong trận khởi nghĩa Lam Sơn.
Hiện nay, vẫn chưa xác định được chính xác thời điểm xây dựng đền. Đến ngày nay, sau rất nhiều lần tu sửa và tôn tạo, tòa nhà chính tại đền Công Đồng Bắc Lệ là nơi thờ Tam Tòa Thánh Mẫu (Mẫu Đệ Nhất, Mẫu Đệ Nhị và Mẫu Đệ Tam) và các tượng thờ các vị thần linh như Ngũ Vị Tôn Ông, Tứ Phủ Chầu Bà, Tứ Phủ Quan Hoàng, Cô, Cậu,… Bên cạnh đó, còn có các gian nhà nhỏ thờ Chầu Bé Bắc Lệ và bàn thờ Ngũ Hổ ngoài trời. Đền còn nổi tiếng với sự tích Chầu Bé được coi là người dân ở vùng Bắc Lệ, có thể thay mặt Mẫu Thượng Ngàn thực hiện các ý đồ sáng tạo.
Ngày hội chính của đền là ngày 20/9 âm lịch thường niên, được nhân dân địa phương coi là cái tết lớn nhất năm và tổ chức vô cùng linh đình.
Bản văn Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn
Văn Chúa Thượng Ngàn
(dùng để hát khi hầu giá Chúa Thượng Ngàn)
Lòng kính tin hương dâng một triện
Thỉnh Chúa bà ứng hiện chân nhang
Quyền bà cai các cửa ngàn
Quản tri các bộ sơn trang tung hoành
Tiếng anh linh vang lừng thế giới
Sắc tặng phong Lê Mại đại vương
Thông minh chính trực cương thường
Lại thêm tinh tú đoan trang hay là
Vốn sinh ra hình dong tươi tốt
Da tựa ngà má phấn môi son
Hài xanh dạo bước lên non
Dạy chim oanh hót véo von chào mừng
Các cửa rừng ba mươi sáu động
Đức oai danh thú phục cầm kinh
Khi vui chơi chốn hữu tình
Khi buồn Chúa lại tung hoành càn khôn
Khi Lạng Sơn Đồng Đăng Ao Cá
Khi lại về Thanh Hóa Nghệ An
Có khi chơi cảnh Đồi Ngang
Có khi Thuận Hóa Quảng An ra vào
Chí tiêu dao bầu trời cảnh phật
Phép thần thông nhiệm nhặt càng ghê
Có phen Chúa ngự Thất Khê
Công Đồng Bắc Lệ đi về sớm hôm
Có phen ngự Đông Cuông thú cảnh
Mắc võng đào ngự đỉnh non cao
Hà Giang Bắc Mục ra vào
Sơn lâm vắng vẻ tiêu dao tính tình
Non cao đàn hát tập tành
Chúa Mường Chúa Mán cảnh thanh chơi bời
Trên núi đoài ngàn xanh mây thắm
Dưới suối ngàn đá trắng nền xanh
Trên ngàn dưới suối hữu tình
Chim kêu vượn hót trên cành cây cao
Gà rừng khuya sớm ra vào
Chim kêu vượn hót xôn xao đùa cười
Cáo cầy ríu rít tức thời
Bốn phương rừng núi thảnh thơi non bồng
Thỉnh Chúa giáng ngự đàn trung
Khuông phù đệ tử thiên xuân thọ trường
Văn Mẫu Thượng Ngàn – Chúa Sơn Trang
Trấn sơn lâm Nhạc Tiên Vương Mẫu
Quản thượng ngàn ba mươi sáu động tiên
Hiệu danh Lê Mại Chúa Tiên
Bạch Anh công Chúa cầm quyền sơn lâm
Âm dương khí hợp thần hun đúc
Vòng càn khôn vũ trụ thai sinh
Vốn xưa giá ngự thiên đình
Quyền cai nhạc phủ rừng xanh ra vào
Ra hiệu lệnh võng đào đón rước
Thổ mán mèo sau trước phục tâm
Ơn nhờ Thánh Mẫu sơn lâm
Chở che làng bản thôn dân an lành
Lòng mộ Phật tu hành sớm tối
Cõi thiền na dốc chí bền tâm
Từ bi ứng hóa hiện thân
Có phen hóa hiện thôn dân đi rừng
Có phen biến người nùng người thổ
Có phen thời thuần hổ luyện voi
Hóa sinh sinh hóa kiếp người
Sơn Lâm Công Chúa chính ngôi La Bình
Theo đức Thánh Sơn Tinh tuần thú
Dạy muôn loài báo hổ chim muông
Dạy dân phát rẫy làm nương
Dạy cho chim hót líu lường líu lô
Nước cam lộ từ bi đượm khắp
Ứng hóa thân cứu độ muôn loài
Hóa sinh sinh hóa muôn nơi
Dấu chân ghi để muôn đời khắc ghi
Cảnh núi Giùm vạn niên lịch đại
Đất Tuyên Quang còn mãi truyền ghi
Đền thờ lồng lộng uy nghi
Thượng Ngàn Thánh Mẫu độ trì bốn phương
Khi hiển thánh Đông Cuông Yên Bái
Giữ đạo nhà nữ tắc tài hoa
Ngát hương dòng dõi Lê gia
Mãn trần xa giá gần xa mến lòng
Khắp mọi vùng nhớ công ơn đức
Lập đền thờ chầu chực khói hương
Bảng vàng Lê mại đại vương
Phù Lê gây dựng giang sơn thái hòa
Khắp Nam Bắc gần xa mến phục
Đội ơn người giáng phúc giáng ân
Chữ rằng sở nguyện tòng tâm
Mẫu vương lưu phúc thiên xuân thọ trường
Nhạc tiên Sơn Lâm Thánh Mẫu Văn
Anh linh hiển hách Chúa Sơn Trang
Cai quản ba mươi sáu cửa ngàn
Lúc ngự lầu son cùng phủ tía
Khi chơi núi ngọc với non vàng
Gươm thiêng một buổi ra oai phép
Loài giặc Liễu Thăng phút phá tan
Thái tổ Lê triều ban sắc tặng
Danh thơm lừng lẫy khắp Nam bang
Tam quang chiếu bao la thế giới
Vầng nguyệt soi chói lọi nam thiên
Đền thờ phong nguyệt vô biên
Gió thu dìu dặt chuông rền nhặt khoan
Trịnh niềm đan nhớ xưa tích cũ
Chốn lạc châu thuỷ tú sơn tinh
Đông Cuông công chúa giáng sinh
Giáng vào lệnh tộc phúc lành quyền cao
Miền xà thuỷ màn trao dưới trướng
Chúa giáng trần thoang thoảng mùi hương
Hồng hoà sáng khắp bốn phương
Định sinh công chúa ai đương sánh tày
Hằng chải chuốt đêm ngày dưỡng dục
Giá so bằng vàng ngọc nết na
Nhỡn tinh sao đẩu Ngân Hà
Môi son má phấn tóc đà sở vân
Giá thanh tân dịu dàng cách điệu
Đoá phù dung dương liễu nhởn nhơ
Vẻ nào mà chẳng trai lơ
Hoa xuân mới nhú nguyệt thu đương tròn
Giá so bằng kim côn ngọc lệ
Nét đan thanh ai vẽ cho bì
Gồm lo đức tính dung nghi
Giá so Tống Tử sánh bì Tề Khương
Ánh xuân quang tuổi vừa ngoại kỷ
Mãn cõi trần phút đã lên tiên
Thần thông biến hoá vô biên
Phàm trần ai biết phép tiên ẩn hình
Đông Cuông sơn thuỷ hữu tình
Chúa thường trắc giáng hiện hình bách ban
Danh tiên chúa trên ngàn lừng lẫy
Hoá phép màu đã dậy thần linh
Sắc phong thượng đẳng tối linh
Tà thần cũng phục yêu tinh hàng đầu
Khắp đâu đâu nức danh đều biết
Chúa Thượng Ngàn lẫm liệt thần cơ
Tụ Long Bảo Lạc Tam Cờ
Sông Thao sông Cả sông Bờ sông Dâu
Khắp các châu nức danh thần nữ
Tự Lê triều quốc sử còn ghi
Danh thơm Nam Bắc Trung kì
Bảo dân hộ quốc độ trì tứ phương
Sắc Lê Mại Đại Vương trường trị
Đông Cuông từ đích vị danh lam
Chim kêu vượn hót trên ngàn
Tả thời bạch hổ hữu đoàn thanh long
Dòng bích lãng nước trong leo lẻo
Giải Tô giang uốn éo xinh ghê
Thông reo trúc hoạ tứ bề
Đền thờ cao ngất trông về Bắc Kinh
Cảnh thanh tú bên ghềnh trị thuỷ
Chúa giáng trần trấn trị yêu ma
Chúa về trắc giáng điện toà
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường