Đền Cái Lân – ngôi đền cổ linh thiêng “ cầu được ước thấy”

Đền Cái Lân nằm trên địa bàn phường Bãi Cháy, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Đây là một trong những ngôi đền cổ trên đất nước Việt Nam thờ Mẫu đệ Tam, được nhân dân thờ cúng nghiêm cẩn. Ngôi đền còn được biết đến là đền “cầu được ước thấy” tại đất mỏ Quảng Ninh. Năm 2015, đền Cái Lân được nhà nước phân loại là Di tích lịch sử nhưng chưa xếp hạng. 

NỘI DUNG

Sự tích đền Cái Lân Quảng Ninh

Trong các ghi chép lịch sử hiện nay còn sót lại, không còn một chứng tích nào có thể nói rõ về lai lịch ngôi đền mà chỉ có những lời thuật lại của dân gian lưu truyền. Tương truyền, đền Cái Lân có từ thời nhà Trần. Do tọa lạc tại vị trí đổ ra biển của 6 cửa sông, Hưng Đạo Vương đã cho xây dựng ở đây một ngôi đền để cai quản sông nước là đền Cái Lân. Đây là một trong nhiều ngôi đền thờ Mẫu Thoải phủ hay còn gọi là Mẫu Đệ Tam – bà chúa liên quan trực tiếp đến việc sông nước của dân tộc Việt từ xa xưa. Ngài cũng cho người mang chân nhang từ đền Mẫu Thác Hàn Sơn (huyện Hà Trung, Thanh Hóa) về để trấn yểm cho Đền. Nhiều người cho rằng, chính sự linh thiêng của Thánh Mẫu đã giúp cho quan quân nhà Trần đánh thắng giặc Nguyên Mông trong nhiều trận thuỷ chiến ở miền Đông Bắc.

Xem thêm: Văn khấn Mẫu Thoải – Kinh nghiệm dâng hương cúng lễ Mẫu Thoải.

Thông thường, đền thờ mẫu người ta thờ chung Tam toà thánh Mẫu. Nhưng đền Cái Lân lại là một trong 3 ngôi đền tại miền Bắc chỉ thờ Mẫu Đệ Tam. Địa chỉ của đền là đường Cái Lân, Bãi Cháy, Hạ Long, Quảng Ninh, nằm trong khu vực Cảng Cái Lân của TP. Hạ Long. Năm 2009, người ta xây dựng thêm một ngôi chùa bên cạnh đền.

đền cái lân
Cổng đền Cái Lân

Kiến trúc đền Cái Lân

Theo thủ từ của đền,  trước đây ngôi đền có nhiều bức tượng linh thiêng. Tại đây,  nổi bật nhất là những pho tượng mẫu mặc sắc phục trắng (danh hiệu Bạch Ngọc Thuỷ tinh), kích thước to bằng người thật, đôi mắt như có linh hồn. Phía trước ngôi đền có hai pho tượng đôi mắt rất sắc. Ngoài ra, còn có tượng 5 vị quan lớn, tượng cô và tượng cậu ở bên ngoài. Hiện nay, ngôi đền đã trùng tu và tôn tạo nhiều lần. Một số pho tượng cũng được di chuyển lên thờ tại đền ở khu vực phía trên đồi cao. 

Quanh khuôn viên ngôi đền là những cây cổ thụ lâu năm. Cây si cổ có tán, thân, rễ cây ôm trọn lấy toàn bộ phía sau và hai bên ngôi đền. 

Xem thêm: Khám phá kiến trúc đền Cửa Ông đẹp nhất Quảng Ninh – Kinh nghiệm dâng lễ cho khách hành hương.

Dâng lễ đền Cái Lân

Đền Cái Lân là địa chỉ tâm linh nổi tiếng không chỉ với người Quảng Ninh mà còn với nhiều du khách thập phương.  Đền Mẫu nằm trong khuôn viên Cảng Cái Lân đã giúp cho người dân địa phương yên tâm làm ăn, được mệnh danh là ngôi đền “cầu được ước thấy”.  Vì vậy, vào dịp Tết Nguyên Đán, Rằm tháng Giêng, Rằm tháng Bảy… đền Cái Lân lại thu hút đông đảo du khách đến tham quan chiêm bái tấp nập. Lúc này, con hương, đệ tử ai ai cũng nô nức sắm sửa đầy đủ lễ lạy thành tâm khấn vái. 

Hiện nay, Oản Tài Lộc đang là địa chỉ được nhiều khách hàng đặt mua oản làm đồ lễ. Cũng bởi vì hình dáng thiết kế thẩm mỹ và ý nghĩa tâm linh lâu đời của thứ bánh oản đều có cả trong các mẫu Oản Nghệ Thuật này.

Xem thêm: Các cách chọn đồ lễ thắp hương Gia Tiên – Tứ Phủ – Phật – Thần Tài ý nghĩa nhất

Oản cô Tâm – đơn vị cung cấp oản lễ đền Cái Lân và các lễ Tứ Phủ

Oản Tài Lộc là dòng sản phẩm do thương hiệu Oản Cô Tâm cung cấp, chuyên phục vụ nhu cầu cúng lễ thành tâm trên khắp đất Việt. Những quanh oản được trang trí khéo léo, đẹp mắt bởi bàn tay những nghệ nhân khéo léo dày dặn kinh nghiệm và thấu hiểu văn hóa tín ngưỡng thờ cúng của Người Việt, tạo sự an tâm, tin cậy cho khách hàng khi chọn mua. 

Ví dụ, theo tâm linh khi dâng lễ đền Cái Lân, oản dâng lễ Mẫu Đệ Tam nên có màu sắc trắng. Bởi vì màu trắng giống màu của nước – màu sắc đại diện cho Thoải Phủ. Quý khách có thể tham khảo mẫu oản Nghệ Thuật thích hợp để dâng lễ Mẫu Đệ Tam đền chùa Cái Lân Quảng Ninh như sau:

oản tài lộc 103
Mẫu oản tài lộc thiết kế đặc biệt mang màu trắng thích hợp dâng lễ đền Mẫu Thoải – đền Cái Lân
sắm lễ đền cái lân
Oản Tài Lộc màu trắng dâng lễ Mẫu Thoải

Sự tích về Mẫu Đệ Tam – bà chúa Thoải Phủ canh giữ việc sông nước

Truyền thuyết kể lại rằng, Thánh mẫu đệ Tam vốn là công chúa con gái vua Vua Cha Bát Hải Động Đình, danh hiệu là “Bạch Ngọc Thuỷ tinh Xích Lân Long nữ công chúa”. Vâng lời Vua Cha, công chúa được gả cho Kính Xuyên là con vua Đất. Không lâu sau, Kinh Xuyên lấy tiểu thiếp tên là Thảo Mai. Vào một ngày Kính Xuyên đi vắng, Thảo Mai lén đặt bức thư giả để hãm hại bà. Khi Kính Xuyên quay về, mù quáng chẳng màng ngay gian mà nghi cho bà tội thất tiết. Bà bị bỏ vào cũi và bị đày lên rừng cho hổ dữ ăn thịt. Sau đó, công chúa được một chàng trai tên Liễu Nghị giải cứu về Long Cung. Trong văn hầu mẫu ở đền Cái Lân (cũng như một số nơi khác) có đoạn nói về nỗi oan khuất này:

 “Thỉnh mời Đệ Tam Thánh Tiên

Xích Lân Long Nữ ngự miền Thoải Cung

Kính Xuyên sớm kết loan phòng

Thảo Mai tiểu thiếp ra lòng gieo oan

Kính Xuyên chẳng xét ngay gian

Vàng mười nỡ để lầm than sao đành

Lòng trời thương kẻ ngay lành

Xui quan Liễu Nghị nho sinh tìm vào…”. 

Sau này khi hiển thánh, bà thường phù hộ độ trì cho những ngư dân và người làm nghề sông nước làm ăn thuận lợi, tránh được mưa to gió lớn. 

văn khấn đền cái lân
Mẫu Đệ Tam Thoải Phủ

Vì thế, người ta thường lập đền thờ bà tại các cửa sông trong đó có đền Mẫu Hàn Sơn (Hà Trung, Thanh Hóa), đền Dầm (Thường Tín, Hà Nội), đền Mẫu Thoải (Chương Dương, Hà Nội và TP Lạng Sơn, Lạng Sơn),…. Khi mất, bà thường hiển linh phù hộ độ trì cho những người làm nghề sông nước tránh được mưa to gió lớn. Vì thế, trên các cửa sông, người ta thường lập đền thờ bà.

Thoải Tiên Đệ Tam Thánh Mẫu

Thoải Tiên Đệ Tam Thánh Mẫu Văn nói về Mẫu Đệ Tam, được dùng để hát thờ vào những dịp tiệc đản, hát văn thi hay hát hầu Mẫu đệ Tam như là văn khấn đền Cái Lân. 

Bỉ cách:

Anh linh lừng lẫy chốn giang khê

Nức tiếng con vua dưới thuỷ tề

Ngán nỗi Kính Xuyên rời chỉ thắm

May nhờ Liễu Nghị chắp dây xe

Rập rìu tin nhạn thư vừa tới

Thấm thoát xe loan phút đã về

Hiển hách xưa nay ai dễ tỏ

Có chăng gửi một bức thư đề

Miễu:

Trạnh giang biên doành ngân lai láng

Nguyệt lầu lầu soi rạng Nam Minh

Con vua thuỷ quốc Động Đình

Có tiên thần nữ giáng sinh đền rồng

Đức gồm vẹn công dung ngôn hạnh

Nết nhu mì bẩm tính thiên nhiên

Dung nghi cốt cách thần tiên

Vàng trong nước lệ ngọc miền non côn

Hằng chầu chực kim môn ngọc điện

Duyên sắt cầm chưa định nơi nao

Chúa từ gìn giữ thanh tao

Gió đằng vương các khư tao dưới màn

Chốn thuỷ cung có nhà lệnh tộc

Vốn con dòng danh ốc Kính Xuyên

Xưa nay thế phiệt gia truyền

Thảo Mai nàng ấy tạm quyền tiểu tinh

Chí bình sinh phù đời giúp nước

Ân cửu trùng phó thác biên cương

Giá danh công chúa phi phương

May nhờ lá thắm xe duyên tơ hồng

Trên vương phụ có lòng lân mẫn

Thổng cách:

Cho hai người duyên phận sánh nhau

Chúa từ kết nghĩa trần châu

Đã đành chỉ thắm giành sâu khôn nài

Ước trăm năm duyên hài phối thất

Đạo cương thường nhiệm nhặt tóc tơ

Cùng nhau chưa mấy nắng mưa

Ngờ đâu duyên phận thiên cơ bởi trời

Trách Thảo Mai ra lòng giáo giở

Trá đồ thư làm cớ gieo oan

Kinh Xuyên chẳng xét ngay gian

Nỡ đem đầy chốn lâm sơn sao đành

Đỉnh non xanh một mình vò võ

Sơm khuya cùng núi cỏ ngàn cây

Đèn trăng chiếu đá màn mây

Dưỡng thân hoa quả bạn bày trúc mai

Thường vãng lai thanh sơn tú thuỷ

Lột đại xá tựa thể ngư long

Có phen biến tướng lạ lùng

Mày ngài yểu điệu má hồng phi phương

Có phen nhớ gia hương rười rượi

Mặt rầu rầu dạ rối châu xa

Có phen tưởng khách Hằng Nga

Phú bình:

Tưởng bề phu phụ xót xa muôn phần

Có phen trách lang quân bội bạc

Cả nghe mà trách móc duyên ai

Có phen lão ủ đào phai

Phận đành chắp chi xe gai việc thường

Có phen trai dầu sương dãi nguyệt

Ba thu tròn mong quyết thu không

Có phen nhìn áng non sông

Âu sầu đến nỗi hình dung võ vàng

Tứ bề những hổ lang ác thú

Vật đều cùng mến chúa hôm mai

Đua nhau trăm giống nghìn loài

Dâng hoa cúng quả chẳng nài công phu

Trải mười thu dãi dầu sương nắng

Tin cá trầm nhạn vắng khôn hay

Chúa buồn vì nỗi riêng tây

Hay đâu con tạo vần xoay bởi trời

Trên dương thế có người nho sĩ

Phú chênh:

Văn tú tài Liễu Nghị là tên

Trẻ thơ nhờ ấm thung nguyên

Sôi kinh nấu sử hằng chuyên việc mình

Vừa gặp hội lai kinh ứng thí

Dặm đường trường Liễu Nghị trẩy ra

Vũ môn mong nhẩy đợt ba

Hiềm đâu con tạo xoay ra bởi trời

Đi tới trốn đầu nơi hiu quạnh

Bóng ác tà sương lạnh đầu hôm

Đầy ngàn hoa quả xanh um

Trước hàng liễu ủ sau chùm đào phai

Lòng quân tử đeo đai cảnh vật

Thấy chúa ngồi tư chất dung nhan

Má đào châu lệ chứa chan

Phú rầu:

Nỉ non tấm tức khóc than một mình

Chàng trông thấy tâm tình cảm kích

Chúa ngập ngừng hỏi khách rằng hay

Sơn lâm rừng vắng chốn này

Cớ sao quân tử tới đây lạc loài

Bây giờ trăng soi ác lặn

Chàng hãy còn thơ thẩn cớ sao

Thưa rằng hàn sĩ trí cao

Mười năm đèn sách công lao chuyên cần

Hội Long Vân hiềm chưa gặp gỡ

Duyên sự này cơn cớ bởi đâu

Dám xin kết nghĩa trần châu

Kẻo còn thục nữ đeo sầu dưới trăng

Chúa nghe nói rùng rằng khôn siết

Mới nhủ chàng cả quyết sao nên

Tôi nay người dưới thuỷ tiên

Nghiêm đường trước đã định duyên giai kỳ

Khăng khăng giữ đạo tuỳ sau trước

Chẳng ngờ chàng tính nước lòng mây

Bông không gắp lửa bỏ tay

Gieo oan thất tiên đem đầy mười đông

Phiền quân tử tin thông nhạn cá

Phú nói:

Duyên sự này thiếp há đơn sai

Chẳng rằng hẳn được như lời

Sá chi bể rộng sông dài quản đâu

Nhờ bóng nguyệt đêm thâu giãi tỏ

Giãi tấc lòng nhờ có cao xanh

Hàn Sơn nghe vẳng chuông kình

Kim ô bóng đã xế hình bãi dâu

Chúa hiềm nỗi bấy lâu oan ức

Phó cho chàng một bức thư phong

Thư văn:

Nữ tiên thủ bút

Bái tạ Long cung

Lạy vua cha chính ngự ngai rồng

Tường sự tích chung tình trúc chiếu

Phận con niên thiếu

Nữ tắc nữ công

Tự Kính Xuyên sớm kết chỉ hồng

Duyên cá nước sắt cầm hoà hợp

Vì nàng tiểu thiếp

Tên gọi Thảo Mai

Bỗng vì đâu đặt để nên nhời

Phút chốc khiến bắc nam đôi ngả

Hư không làm có

Gắp lửa bỏ tay

Trách chàng chẳng xét gian ngay

Nỡ bắt thiếp đem đầy viễn thú

Hôm mai vò võ

Tủi ngậm ngùi than

Tấm lòng son bối rối gan vàng

Đâu dạ sắt ngẩn ngơ mặt ngọc

Tưởng duyên tơ tóc

Tủi phận má hồng

Khi vui thời bạn trúc thông

Khi buồn lại than cùng hoa cỏ

Thiên duyên kỳ ngộ

Sẽ gặp tình quân

Gửi bức thư về mái hải tần

Trình khắp hết lưỡng ban thần tử

Nỗi niềm tâm sự

Mượn bút thay lời

Gửi chàng đi đến mai Long giai

Để thiếp được gần chầu thánh đế

Sơn minh hải thệ

Tạc dạ ghi lòng

Ví dù ai phụ nghĩa quên công

Xin xoi xét đôi vầng nhật nguyệt

Vãn cách:

Dặn chàng ra mái bể Đông

Tới đâu hễ thấy ngô đồng cây cao

Lấy kim thoa gõ vào cây ấy

Dưới thuỷ tề nghe thấy không lâu

Tuỳ cơ ứng biến nhuộn mầu

Mặc lòng nhời ngỏ , mặc dầu thơ trao

Chàng nghe nói tiêu hao sau trước

Dạ bùi ngùi chân bước đường thông

Bể đào lai láng xa trông

Nửa lo nỗi chứa nửa lòng sự duyên

Sông Ngân hán băng miền thẳng trỏ

Kiều dương:

Tới ngô đồng tay gõ vừa thôi

Tự nhiên nổi trận phong lôi

Giữa giòng bỗng thấy một đôi bạch xà

Chàng trông thấy sự đà ứng hiện

Mấy bầy nhời chúc kiến phân minh

Bạch xà thoát xuống động đình

Sai lên rẽ nước dòng xanh rước chàng

Rước chàng xuống đền vàng Thuỷ Phủ

Thấy quần thần văn vũ đôi bên

Tiêu thiều nhã nhạc dưới trên

Tả bầy ngư miếc hữu chen long xà

Kim quy sứ tâu toà ngọc bệ

Bước ra mời Liễu Nghị vào trong

Chàng quỳ dâng bức thư phong

Phụ vương trông thấy trong lòng quặn đau

Trách Kính Xuyên cơ cầu độc giữ

Mấy truyền đòi trưởng từ Xích Lân

Phán rằng em phải gian truân

Con nên rước xuống về sân chớ chầy

Nhời vương phụ phán ngay vừa kíp

Xích Lân bèn hoá phép thần thông

Bể đào lai láng mênh mông

Khắp hoà thế giới đều cùng mênh mang

Sấm chớp vang mưa tuôn bão giật

Cờn luyện:

Quỷ cùng ta thán khắp mọi nơi

Chúa tiên về tới long giai

Kính Xuyên phải tội Thảo Mai đi đày

Công cán này ai tày Liễu Nghị

Phong cho làm quốc tế thuỷ quan

Chàng từ vâng lệch thiên nhan

Duyên ưa phận đẹp chức ban trọng dùng

Mái tiên cung an bài tự trước

Kẻ phàm trần bỗng gặp sánh tiên

Chàng từ Kim cải bén duyên

Có danh trí tuệ có quyền anh linh

Dù ai phải bất bình mỏi mệt

Tấm lòng thành khấn vái lại tha

Dù ai tiến cúng nhang hoa

Tiền tài lưu loát cửa nhà bình yên

Đã nên đấng anh linh kỳ diệu

Khắp trong triều nhường vị kính ngôi

Dồn đại thạch:

Dám xin những sự đã rồi

Xin đừng nghĩ đến dông dài làm chi

Kìa Vũ thị hảo tuỳ một tiết

Chàng Trương sinh chẳng biết ngay gian

Bóng đèn nghe trẻ nói oan

Làm cho thiếu nữ hồng nhan liều mình

Đã nên đấng anh linh liệt nữ

Trách chi người vụng xử chấp nê

Bằng nay tiên chúa sinh chi

Giá đem sau trước mà suy sự lòng

Rũ sạch không những niềm tân khổ

Nương uy trời tế độ sinh linh

Đời đời nức tiếng thơm danh

Biển vàng ghi tạc sử xanh dõi truyền

Kiêm ngũ phúc dâng lên cõi thọ

Nước trị trường thánh chúa hưng long

Mẫu về chắc giáng điện trung

Khuông phù đệ tử hưng long thọ trường

Dị bản đoạn Bỉ cách:

Vầng nguyệt ai soi dưới thuỷ cung

Mặt hoa lồ lộ ngự ngai rồng

Giăng đôi tám tuổi in bóng nước

Sạch gương một vừng in lẻo lẻo trong

Trách bóng trăng loan duyên quải bạc

Lo đôi nên phượng ánh thêm hồng

Anh linh thần nữ quyền cai quản

Thuỷ quốc nhân gian một mối thông

Dị bản đoạn Thư văn:

Vậy có thư rằng:

Nữ tiên thủ bút

Bái tiến cửu trùng

Lạy vua cha cao ngự long cung

Xin chúc chiếu mở lòng nhân thứ

Kể từ ngày tái giá tòng phu

Việc tảo tần hằng dự không sai

Nhớ đến khi ngọc kính đầu mai

Nhời kinh giới dám đơn sai cùng phụ tử

Vì Thảo Mai ra lòng giáo dở

Trá đồ thư làm cớ gieo oan

Kính Xuyên chàng chẳng xét ngay gian

Đem đày chốn lâm sơn viễn thú

Đêm ngày vò võ chiếu đá màn mây

Bạn đèn giăng quạt gió làm khuây

Mượn núi cỏ ngàn cây vui thú

Nhân duyên kỳ ngộ

Gặp một chàng tuấn tú nho phong

Hội long vân ngư thủy phùng

Duyên cầm sắc bỗng động lòng quân tử

Lòng còn ngần ngại mới ngỏ lời

Bởi tại sự duyên

Vốn tôi nay người dưới thuỷ tiên

Sớm đã kết Kính Xuyên làm nghĩa cả

Không ngờ chàng lòng chim dạ cá

Nghe Thảo Mai nên đôi ngả sấm thương

Vả tôi nay như chim yến lạc đàn

Phải cung đạn đã sợ làm gỗ vậy

Vì chàng ở trước sao sau vậy

Đem chén son thề với khuôn xanh

Có thiên thanh địa bạch chứng minh

Giao loan mới cầm lành xin tái tục

Chàng Liễu Nghị tòng tâm sớ dục

Chiếc kim thoa phó trúc cùng chàng

Mảng tuyên thề mấy bức từ chương

Dâng về tới đền vàng thuỷ phủ

Kính trình vương phụ thẩm xét ngũ thầm

Nguyện cùng chàng kết nghĩa trăm năm

Cho vẹn chữ sắt cầm tảo hợp

Nỗi niềm giao ước tạc dạ ghi lòng

Dầu mà ai phụ nghĩa quên công

Soi xét có đôi vầng nhật nguyệt.

Bài viết liên quan
03 4545 5959
×

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN OẢN LỄ MIỄN PHÍ

    ×

    CHỈ ĐƯỜNG

    Phone Tin nhắn MESSAGE ZALO CHAT Địa chỉ