Chầu Bát – Bát Nàn Đại Tướng Đông Nhung

Chầu Bát là một trong những vị Tứ Phủ Chầu Bà nổi tiếng linh thiêng, độ trì phước lành cho dân chúng. Bà được mệnh danh là Đại Tướng Đông Nhung – vị nữ tướng tài giỏi, anh dũng trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đầu thế kỉ thứ 1 (40-43).

Xem thêm: Tổng hợp về Thập Vị Chầu Bà – những thông tin không thể bỏ qua

NỘI DUNG

Chầu Bát là ai? Tìm hiểu những danh xưng khác của chầu bà

Chầu Bát là vị chầu bà thứ tám trong Tứ Phủ Chầu Bà trước chầu Chín Cửu Tỉnh và ngay sau Chầu Lục. Bà là nhân vật lịch sử có thật, cụ thể là nữ tướng Đông Nhung dưới thời Hai Bà Trưng thế kỉ thứ nhất. Tương truyền bà giúp nhân dân qua 8 nạn nên được tôn danh là Chầu Bát.

Chầu Bát còn có tên gọi khác như Chầu Bát Thượng Ngàn, Chầu Tám Bát Nàn Bát Nàn Đại Tướng Đông Nhung.

Tiểu sử Chầu Tám Bát Nàn

Chầu Tám Bát Nàn là có tên tục là Vũ Thị Thục Nương. Bà xuất thân từ một gia đình nhà Nho, có cha làm nghề thầy thuốc là ông Vũ Công Chất và mẹ là bà Hoàng Thị Mầu tại Phượng Lâu, Bạch Hạc (Vĩnh Phúc). Hai ông bà luôn sống thiện lương, hiền đức. Ông Vũ Công Chất thường rời nhà đi hái thuốc về chữa bệnh cho nhân dân. Sau một lần ông góp công tu sửa miếu thờ Sơn Tinh Công Chúa thì được ngài cử người đem bè gỗ quý đến tạ ơn. Cùng lúc đó, một cô gái mặc áo cánh sen vô cùng xinh đẹp cũng đến nhà ông bà. Cô gái gọi mẹ và chợt nhào vào lòng bà Thị Mầu rồi biến mất khiến ông bà rất ngạc nhiên. Tuy nhiên, sau đó, ít lâu bà Thị Mầu lập tức có thai. Chín tháng 10 ngày sau, vào giờ Dần, ngày rằm tháng 8 năm Đinh Sửu (17), một bé gái tên Vũ Thị Thục Nương ra đời.

Xem thêm: Thần tích về Chầu Lục Cung Nương – người đã giúp dân trồng trọt chăn nuôi

Cô bé lớn lên trở thành một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, thông minh, sắc sảo, đẹp người, đẹp nết lại giàu lòng nhân ái. Năm 18 tuổi, bà đính hôn với quận trưởng Nam Châu, Phạm Danh Hương. Ngày ấy, nước Nam loạn lạc, bị quân Hán xâm chiếm, đô hộ, Thái thú Tô Định là người được vua Quang Vũ cử sang phụ trách quận Giao Chỉ, đã đến Lầu Phượng Lâu và ép đưa bà về hầu hạ nhưng bà từ chối. Tô định bèn trả thù bằng cách giết cha và chồng chưa cưới của bà rồi cho quân lùng bắt bằng được bà về. Nuôi nợ nước, trả thù nhà, bà đã phá vòng vây, vượt sông Hồng về Tiên La ẩn náu và chờ cơ hội. 

Sau đó, để ẩn giấu thân phận, Thục Nương xin cải trang, gọt tóc niệm Phật trở thành một ni cô nương náu nơi cửa Thiền. Bà vẫn luôn nung náu ý định trả thù trong người và muốn xây dựng đội quân riêng, nhưng điều trước tiên phải làm là ổn định kinh tế nơi Tiên La thì mới có căn đánh giặc. Từ ấy, bà chỉ cho dân làng cách làm ăn, buôn bán, sản xuất. Tiên La nhờ vậy mà sầm uất hẳn lên, người dân cũng khấm khá, dư dả hơn trước. Thời gian trôi qua, bước đầu ổn định nguồn lực kinh tế đã hoàn thành, bà bắt đầu chiêu dụ thanh niên trai tráng khắp nơi đầu quân đánh giặc. Dần dần, Tiên La trở thành nơi gióng quân tụ nghĩa. Ngôi chùa bấy lâu nay Bà hương khói chẳng mấy chốc trở thành chỉ huy sở của nghĩa quân Thục Nương. Đến mùa thu năm ấy, nghĩa binh Thực Nương dấy lên đến hơn ngàn, tiếng tăm lan truyền khắp nơi. Thục Nương phất cờ khởi nghĩa, danh xưng Bát Nạn đại tướng quân. 

Xem thêm: Thần tích về Chầu Năm Suối Lân – Đền thờ, văn khấn và ngày tiệc

Cùng lúc ấy, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng nổ ra, Hai Bà nghe danh Bát Nạn đại tướng quân anh tài nhiều lần đánh đuổi giặc Hán nên cho hịch đến vời. Bà nhận hịch, sau khi tham khảo ý kiến bô lão, bà đầu quân cho Hai bà Trưng. Sau khi gia nhập quân đoàn, nghĩa binh của Thục Nương được giao nhiệm vụ làm tiến quân dẹp giặc Hán. Với tài thao lược hơn người cùng binh lực tốt, quân của bà đi đến đâu là dẹp hết giặc đến đó, đem lại binh yên cho tổ quốc.

Tuy nhiên, chỉ một năm sau, quân Hán lại cử quân sang xâm chiếm. Lần này địch mạnh gấp vạn phần. Quân nhân cùng các tướng sỹ của Hai Bà Trưng lại vác đao lên chống giặc. Tuy nhiên, lần này toàn quân đã thất bại, đánh không lại với quân Hán tàn ác. Thục Nương cùng quân sĩ trở về Tiên La hòng giữ làng xóm nhưng cũng thất bại. Biết đã thất thế, Thục Nương đã rút gươm, tuẫn tiết ngay dưới gốc cây tùng. Nơi nàng mất, mối đùn lên thành mộ. Người dân quanh vùng cảm nhớ công ơn nên đã lập miếu thờ ngay dưới gốc cây tùng đó.

Sau này, để ghi nhớ công ơn bà, rất nhiều đời vua đã ban sắc phong cho bà. Đó là:

  • Đời vua Lê Thánh Tông sắc phong: Ý Đức Đoan Trang Trinh Thục Công Chúa.
  • Đời vua Minh Mạng sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần.
  • Đời vua Khải Định sắc phong: Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Thượng Đẳng Thần.

Dâng lễ Chầu Bát

Hàng năm vào đầu năm mới hoặc những ngày lễ đặc biệt tại đền thờ Chầu Bà là hàng ngàn lượt khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước lại đổ về dâng lễ cúng bái Chầu Bà. Vừa là để tỏ lòng thành kính, biết ơn đối với công lao của bà, vừa để bà chứng lòng thành các con hương, phù hộ độ trì cho gia quyến được bình an, may mắn, sức khỏe, có tài, có lộc trong năm mới. Khi dâng lễ Chầu Bát, con hương thường sắm đầy đủ một mâm lễ vật gồm một đĩa hoa, một đĩa quả, một cơi trầu, quả cau, cút rượu, xôi thịt, một tập giấy tiền, thẻ hương cùng một cánh sớ trình báo.

Sau khi dâng những thức lễ này trên ban thờ thánh, bạn chờ hết một tuần hương rồi hạ lễ. Riêng cánh sớ và giấy tiền đem đi hóa tại nơi hóa sớ của đền. 

Bên cạnh đó, nếu bạn muốn có một lễ vật có thể dâng cúng lâu dài trên ban thờ thánh thì có thể tham khảo Oản Tài Lộc. Oản Tài Lộc có thể được lâu với thời gian khoảng 6 tháng được trang trí tỉ mỉ, trang trọng rất thích hợp đặt trong không gian cúng lễ.

Xem thêm: Chầu Bé Bắc Lệ là ai? Sự tích và cách di chuyển đến đền thờ bà

Quanh oản dâng Chầu Bát phải là quanh oản màu vàng. Bởi khi về ngự đồng, bà thường mặc áo vàng đội khăn xếp vàng lộng lẫy. Cũng do vậy mà quanh oản dâng lên Chầu Bà cũng nên được trang trí nghệ thuật trông đẹp hơn, sang trọng hơn giống như quanh Oản Tài Lộc mà Oản Cô Tâm đang làm.

Oản Tài Lộc 124
Oản lễ màu vàng thành tâm dâng lễ Chầu Bà

 

chầu bát thái bình
Oản Ngọc màu vàng siêu đẹp lễ Chầu Bà

Xem thêm: Những mẫu oản vàng dâng Chầu Tám Bát Nàn khác.

Oản Tài Lộc hiệu Cô Tâm được làm bằng cả cái tâm muốn dâng lễ vật đẹp, sang đến trước cửa Chầu Tám Bát Nàn. Oản được tạo nên từ đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân cùng những chi tiết trang trí nghệ thuật được đúc kết từ quá trình nghiên cứu kỹ càng về văn hóa tâm linh tín ngưỡng thờ cúng của Người Việt bao đời nay. Do đó, quý khách hàng hoàn toàn an tâm rằng, những quanh oản dâng lên Chầu Bát đều là những quanh oản đẹp nhất, sang nhất, đạt chuẩn cả yếu tố thẩm mỹ và yếu tố chất lượng.

Đền Tiên La Thái Bình thờ Chầu Tám Bát Nàn

Chầu Bát linh thiêng nên bà được thờ ở rất nhiều nơi, nổi tiếng nhất phải kể đến đền Tiên La. Đền thuộc địa phận thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Mắc đến hướng ra phía con sông Tiên Hưng. Xưa kia, tại đây, Chầu Bà cũng đã từng cứu dân làng khỏi bọn giặc ác ôn nên nhân dân vô cùng biết ơn bà. Ngoài ra, nơi đây cũng là nơi thi thể chầu trôi về. Do đó, người dân ở đây tôn xưng hẳn bà là Mẫu Tiên La hay Chầu Bát Tiên La. 

Tại ngôi đền này cũng còn lưu truyền câu chuyện rằng khi Chầu Bát đã ở trên ngàn bà vẫn hóa phép đốn cây rừng và cho thả trôi về bến sông gần đền Tiên La để nhân dân có vật liệu tu sửa lại đền. Nhờ vậy mà ngôi đền trở nên khang trang và chắc chắn hơn.

Vị trí và cách di chuyển đến đền Tiên La

Để đến đền Tiên La, từ trung tâm Hà Nội bạn có thể đi bằng xe khách hoặc phương tiện di chuyển cá nhân.

  • Đối với xe khách, bạn ra bến xe khách Giáp Bát và bắt xe về Hưng Hà Thái Bình. Xe sẽ trả khách tại thị trấn Hưng Hà, Thái Bình. Tại đây, bạn bắt xe đến đền Tiên La thuộc xã Đoan Hùng. Thời gian đi dự kiến khoảng 4 tiếng.
  • Đối với xe ô tô, tuyến đường tối ưu nhất mất khoảng 2 tiếng cho quãng đường 80,5Km là bạn đi từ trung tâm Hà Nội về quốc lộ 1A và rẽ vào cao tốc Ninh Bình – Hà Nội, đến Đường Tránh Hoà Mạc tại Yên Bắc, rẽ phải tại Tiệm Điện Mạnh Huân vào Đường Tránh Hoà Mạc, đi dọc theo QL38 và QL39A đến Đường Mới tại tt. Hưng Nhân, đi tiếp Đường Mới đến đền Tiên La tại Đoan Hùng. Tuyến đường này có thu phí.
đền tiên la
Quãng đường di chuyển bằng ô tô có mất phí
  • Nếu bạn muốn đi bằng ô tô nhưng không muốn mất phí cầu đường bạn có thể đi theo tuyến đường QL1A và đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng/QL5B/ĐCT 04 đến Lý Thường Kiệt, đến nút giao Yên Mỹ rẽ vào Ân Thi – Thị trấn Vương và ĐT 200 đến Cầu Tiên La tại Tân Tiến, đến thẳng Đoan Hùng để đến đền. Quãng đường dài 80,2 Km mất khoảng gần 2 tiếng.
đền tiên la thái bình
Quãng đường di chuyển bằng ô tô không mất phí cầu đường
  • Đối với xe máy, bạn đi ra khỏi thành phố Hà Nội bằng cầu Chương Dương, Đi dọc theo ĐT379 và QL39A đến Toan Thang, Tiếp tục đến Hồng Quan, Đi tiếp ĐT 200 đến tt. Hưng Nhân, Đi tiếp Đường Mới đến đền Tiên La. Quãng đường di chuyển là 80Km mất khoảng 2 tiếng.
đền tiên la
Quãng đường di chuyển bằng xe máy đến đền Tiên La

Kiến trúc đậm chất nghệ thuật truyền thống của đền

Đền được xây từ rất lâu, trải qua nhiều lần tu sửa nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc truyền thống với “Tiền Nhất – Hậu Đinh”. Các cột kèo đều được điêu khắc kiểu dáng Lưỡng Long Chầu Nguyệt. 

Khuôn viên đền tập hợp những công trình chính gồm tam quan ngoại, tam quan nội, tiền tế, trung tế và hậu cung. Các công trình đều được làm bằng gỗ tứ thiết và đá. Với nhà tiền tế 5 gian được kiến thiết bằng gỗ được điêu khắc công phu với những họa tiết “Long – Lân – Quy – Phụng” đan xen với “Thông – Trúc – Cúc – Mai”. Khu nhà trung tế với các kèo cột bằng đá với 4 cột cái chạm tứ linh, 12 cột quân chạm long vân, 8 cột xà chạm “Thông – Cúc – Trúc _ mai” đan xen với “Long – Lân – Quy – Phụng” cùng sương cột và 8 kèo đá chạm điểm băng hoa dây và chữ triện. 

Hậu cung được xây bằng gỗ tứ thiết với 3 gian thờ. Gian giữa thờ Bát Nàn tướng quân, xung quanh là những bài vị thờ tướng sĩ của Bà. Gian bên trái thờ thân phụ và gian bên phải thờ thân mẫu của Bà. Phía trên sát mái đặt một bức đại tự đề “Vạn Cổ Anh Linh” bằng chữ Nôm.

Khách hành hương đến dâng lễ tại đền chủ yếu sẽ đặt lễ và khấn vái tại cung chính này.

Lễ hội đền Tiên La

Hàng năm, đền Tiên La tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công đức của Bát Nạn Tướng Quân vào ngày 10 – 20/3 âm lịch, trong đó, ngày 17 là ngày chính hội và cũng là ngày tiệc của Chầu Bát. Lễ hội thu hút đông đảo con hương trên cả nước về dự, không chỉ vào ngày chính hội mà cả những tháng trước khi tổ chức hội.

Lễ hội được tổ chức đầy đủ với phần lễ và phần hội. Phần hội với các hoạt động văn hóa như múa rồng, múa sư tử và biểu diễn các vở chèo nổi tiếng như Quan Âm Thị Kính hay Lưu Bình – Dương Lễ, …

Đền Tân La – Hưng Yên

Tân La cũng là một trong những đền thờ Chầu Bát nổi tiếng. Đền nằm trên một khu đất rộng với rất nhiều tán cây cổ thụ xum xuê thuộc địa phận xã Đoàn Thượng, Bảo Khê, Hưng Yên. 

Vị trí và cách di chuyển đến đền Tân La

Để đến đền Tân La, Hưng Yên, bạn có thể di chuyển bằng xe khách hoặc phương tiện di chuyển cá nhân.

  • Đối với xe khách, bạn đến bến xe Giáp Bát và bắt xe về thành phố Hưng Yên. Tại bến xe Hưng Yên bắt xe về đền Tân La khoảng 6,3km. Thời gian dự kiến là 2 tiếng.
  • Đối với xe ô tô cá nhân, bạn sẽ mất thời gian khoảng hơn 1 tiếng đi quãng đường dài 55,3 Km và không mất phí. Bạn rời Hà Nội đến đường cao tốc Hải Phòng, Hà Nội, ra khỏi đường cao tốc đi về phía huyện Yên Mỹ khi tới nút giao Yên Mỹ, tiếp tục đi vào QL38 là tới chân đền Tân La.
đền tân la
Quãng đường di chuyển bằng ô tô cá nhân đến đền Tân La nhanh nhất và không mất phí
  • Đối với xe máy, bạn rời Hà Nội bằng lối cầu Chương Dương, đi dọc ĐT 378 đến Thành Phố Hưng Yên, đi tiếp theo QL38 là đến đền Tân La. Thời gian dự kiến là hơn 1 tiếng rưỡi.
đền tiên la thái bình
Quãng đường di chuyển bằng xe máy đến đền Tân La

Kiến trúc đặc sắc của ngôi đền

Ngôi đền Tân La mặc dù đã trải qua nhiều lần tu sửa nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc nghệ thuật truyền thống. Năm 1991 đền được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Quốc gia cần được bảo tồn và lưu giữ.

Đền được xây dựng với cấu trúc hình chữ Công gồm các công trình: Gian tiền tế, Trung từ, Ống Muống và Hậu Cung. 

Gian tiền tế được treo bốn bức đại tự sơn son thiếp vàng gồm Tiên la Từ, Thánh Cung vạn tuế, Trần triều hiển thánh, Trang chủ tọa sơn. Giữa gian tiền tế treo hai câu đối “Trưng Vương anh tài truyền vạn cổ – Nữ tướng uy hùng vĩnh thiên thu”. Tại gian này có đặt bàn thờ Ngũ Vị tôn ông. Bên trái đặt bàn thờ Trần Triều. 

Gian Trung Từ đặt ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Bên trái thờ 3 ông Hoàng. Gian phải thờ Tứ Phủ Thánh Chầu.

Hậu cung có đặt bàn thờ Chầu Bát với thiết kế vì kèo đơn giản. Tượng Chầu bà được đặt trong khảm, tạc ở tư thế ngồi, đầu đội mũ, mặc áo vàng.

Lễ hội đền Tân La

Xưa kia, lễ hội đền Tân La được tổ chức vô cùng lớn kéo dài từ đầu tháng cho đến cuối tháng 3 âm lịch. Trong lễ hội cũng tổ chức đủ phần lễ và hội. Với phần hội có sự góp mặt của nhiều tiết mục văn nghệ cùng các trò chơi truyền thống như kéo co, chọi gà, …. thu hút đông đảo người dân tham gia. Ngày nay, đền vẫn giữ lệ cũ tổ chức lễ hội tuy nhiên quy mô được thu gọn lại và làm đơn giản hơn. Hội kéo dài từ ngày 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch với phần lễ và hội đầy đủ.

Một số đền khác

Vì Chầu bà là người có công lớn, nhân dân khắp nơi ghi ơn nên bà được nhiều nơi thờ vọng. Ngoài hai ngôi đền nổi tiếng trên, còn rất nhiều nơi khác cũng thờ Chầu Bát như Đền Tiên La tại thành phố Hải Phòng hay đền Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn. Ngoài ra còn có một số đền ở tỉnh Thái Bình và Vĩnh Phúc quê bà.

Hầu giá Chầu Bát

Chầu Bát rất hay về ngự đồng, nhất là trong những dịp tiệc vui hoặc về đền chầu. Khi ngự đồng Chầu Bà thường mặc áo màu vàng, đầu đội khăn xếp vàng, vỉ lét thắt quai buộc, sau lưng dắt kiếm và cờ lệnh. Chầu Bà hay sử dụng hai vật dụng này để múa kiếm. 

Bản văn Chầu Bát

Bản 1: 

Trấn Nam thiên hải hà trung tú

Khách má hồng ý trí trượng phu

Sớm sinh ra cảnh liễu bồ,

Tấm thân tiết liệt thiên thu còn truyền,

Nhà họ Vũ vốn dòng hào phú

Nơi sơn lâm bảo hộ muôn dân

Đi qua đỉnh núi non thần

Nhìn xem phong cảnh mọi phần thanh tân

Chợt thấy miếu sơn tinh công chúa

Vốn từ xưa thượng cổ anh linh

Qua cơn loạn lạc đao binh,

Gió mưa đổ nát cung đình vắng tanh,

Lòng thành kính thành tâm sửa lại

Lập ngôi đền tiên thánh phong quang

Đền thờ điện ngọc trang hoàng.

Rồng bay phượng múa cảnh càng hơn xưa,

Sự báo ứng bây giờ cũng chóng

Về Phượng Lâu thần mộng bảo ngay

Làm con để chả ơn dày

Lại cho bè gỗ trăm cây lập đền.

Chợt thấy bóng hoa hiện trước cửa

Gió hào thu tiên nữ hiện thân

Thánh bà từ ấy hiện thần

Ngày rằm tháng tám giờ dần định sinh.

Vốn sinh ra hiền hòa nhan sắc

Thỏa so bằng vàng ngọc ai hơn 

Văn thơ phú lục toàn tài

Cung tiên kiếm nguyệt khó ai sánh tày

Then định sắt tháng ngày ghi tạc

Quan Nam Chân xin bắc cầu ô

Ai ngờ bất nghĩa Chàng Tô

Tham hồng hám sắc mưu mô bạo tàn

Nhà họ Vũ mắc quan vi kế

Đức Vũ ông nhạc tế tình thâm

Tấm lòng chí huyết khôn cần

Hai hàng châu lệ đằm đằm tuôn rơi

Dân nghe nói phân minh uẩn khúc

Ai mà không tức ruột nóng gan

Trên thời phụng sự chay đàn

Ngoài thời luyện tướng trong thời khao quân

Ngôi cột rồng rêu xanh tự phủ

Sách ngàn thu tiên nữ còn ghi

Kiếm cung tập luyện quản gì

Đã cam tấc dạ liều thì một phen

Đôi song kiếm diệt quân xâm lược

Đánh kẻ thù hại nước hại dân

Đứng lên tập hợp nghĩa quân

Thù nhà nợ nước dẹp quân bạo tàn

Tiệc tháng ba vào ngày mười bảy

Công đức bà dân chúng chẳng quên

Tiên La xây điện lập đền

Nhớ ơn Chầu Bát thờ trên Thái Bình

Chầu vào chùa tụng kinh niệm Phật

Độ muôn dân trăm họ bình an

Thanh bình nhớ lúc gian nan

Dâng văn tiên chúa Bát Nàn tướng quân.

Bản 2: 

Đất nước bốn ngàn năm lịch sử

Biết bao trang liệt nữ anh hùng

Đôi vai nghĩa nước tình chồng

Phất cờ đuổi giặc chiến công lưu truyền

Năm bốn ba kỷ nguyên thứ nhất

Đông Hán tràn sang cướp nước ta

Tội gây trời đất không tha

Sát phu cướp phụ bao nhà nát tan

Dân khắc khoải ngày đêm mong mỏi

Ai người lo đánh đuổi thù chung

Phương Lâu đất ấy vua hùng

Có ông Vũ Chất vốn dòng nho gia

Nghề thang thuốc gần xa độ nạn

Hoàng Thị Mầu kết bạn trăm năm

Quỳnh giao hoa nở một bông

Ông bà thỏa nỗi năm mong tháng chờ

Tấm hình hài trẻ thơ đẹp đẽ

Gái hay trai cha mẹ sinh ra

Ông bà bàn lại tính qua

Đặt tên con gái tự là Thục Nương

Vẻ trang nhã hiện lên khuôn mặt

Tóc mây xanh da ngọc môi hồng

Mày ngài mắt phượng lưng ong

Ánh hoa pha tuyết đẹp lòng mẹ cha

Mười sáu tuổi say sưa nghiên bút

Trí thông minh học một biết hai

Kính thư thơ phú văn bài

Thư văn bầu bạn bao người mến thương

Mười tám làm thơ yêu nước

Vạch mặt phường xâm lược bất nhân

Khổ đau đói rách nợ nần

Hay đâu số phận thiên đình định cho

Vì Đông Hán mưu mô xảo trá

Kéo quân sang cướp của giết người

Gây lên tội ác đầy trời

Thái thú Tô Định chính người chủ mưu

Bắt dân mò ngọc trai đáy bể

Lên rừng tìm vật quý công dâng

Ngà voi tê giác hươu nhung

Bóc dằn mưa nắng thấm quằn đòn roi

Dòng thơ hay bao người đón đọc

Chỉ mong sao xóa sạch bất công

Chỉ mong xóa hết nợ nần

Chỉ mong sớm thoát khỏi vòng xâm lăng

Phạm Hương chức Nam Chân quận trưởng

Lẽ thương dân sống dạ cơ hàn

Tuy rằng mũ áo xênh xang

Nhưng lòng thanh bạch chẳng làm điều nhơ

Được Vũ công ưng cho làm rể

Chọn ngày lành làm lễ kết hôn

Tô Định sẵn có lòng tham

Ao tù khát nước rồng vàng tắm chung

Đức Vũ Công không kìm uất hận

Chửi mắng tên Tô Định bất nhân

Tô Định lệnh chém đầu ông

Sai quân sửa chiếc kiệu rồng đón dâu

ĐƯợc tin báo lòng đau như xé

Thục Nương nhờ gửi mẹ nơi xa

Ung dung đến trước kiệu hoa

Trả lời dõng dạc ta đây sẵn sàng

Nhận lễ vật nhà quan mang đến

Các ngươi mau mau đứng lùi ra

Chỉnh tề khăn áo bước ra

Kiếm vung miệng thét chẳng tha kẻ thù

Quân Tô Định vây thành đứng phục

Thục nương ra tới khúc sông Hồng

Thấy thuyền câu nhỏ bỏ không

Kiếm thay chèo lướt theo dòng về cuôi

Bảy ngày đêm đội trời đạp nước

Rẽ sạch lau tìm trốn nương thân

Tiên La cảnh vật tĩnh tâm

Nấp sau Tam Bảo dân dần thiếp đi

Lòng lo nghĩ thù nhà nợ nước

Bao dân lành chẳng được yên thân

Tiên La chiêu dụ nghĩa quân

Tích lương luyện kiếm cùng dân diệt thù

Trưng nữ vương nữ trung anh tú

Biết thục nương nữ chủ phất cờ

Sai quân mời hịch bấy giờ

Ba cây chụm lại nên gò núi cao

Hợp nghĩa binh ba đào bảy động

Thục Nương thời đại tướng tiên phong

Ra quân sấm động uy hùng

Dẹp tan quân giặc sắc phong Bát Nàn

Ba năm giữ giang san đất nước

Quân Hán thời ngang ngược bạo tàn

Sai Quân Mã Viện kéo sang

Lệnh truyền binh tướng sẵn sàng xông pha

quân kéo về ngã ba Đồng Mỏ

Giặc ngông cuồng cờ đỏ vây quanh

Lệnh truyền hiệu triệu khắp thành

Thù nhà nợ nước quên mình xông pha

Đêm thành vắng canh ba lạnh lẽo

Hạt mưa rơi nặng trĩu ngàn cân

Gươm thề tuốt kiếm cầm tay

Lâm râm khấn nguyện đất dày trời cao

Có thấu phận tơ đào yếu liễu

Nợ thù nhà há chịu khoanh tay

Phạm Hương chàng hỡi có hay

Chứng cho lòng trẻ dãi bày hôm nay

Khấn xong đốt xác quân thù

Thung dung nhẹ bước trời vừa rạng đông

Quân Đông Hán ầm ầm kéo tới

Bủa quân vây phơi phới cờ bay

Hùm thiêng gặp bước không may

Lẽ đâu lại để vào tay bạo tàn

Lấy kiếm bạc thân đào tự sát

Gốc thông kia ghi tạc sử xanh

Bát Nạn đại tướng nổi danh

Tháng ba mười bảy năm dần về tiên

Anh linh rực rỡ vạn niên

Dấu thiêng ghi để lưu truyền đời sau

Đệ tử con khấu đầu vọng bái

Tiến văn chầu nhớ lại tích xưa

Bao năm dầu dãi nắng mưa

Công ơn thuở ngàn đời không phai.

Bản 3: 

Dâng văn tiên chúa Bát Nàn

Đền thờ Đại Tướng Bát Nàn – Tiên La

Đền thờ Chầu Bát Tiên La

Hưng Hà là huyện, Đoan Hùng là thôn

Thờ bà Đại Tướng Đông Nhung

Nữ trung oanh liệt, tiếng vang khắp vùng

Vào những năm nửa đầu thế kỷ

Năm bốn ba nửa trước Công Nguyên

Có người con gái thảo hiền

Quê người Bạch Hạc ở vùng Phượng Lâu

Tuổi thanh xuân như hoa đang nở

Đóa phù dung tên gọi Thục Nương

Mặt hoa vẻ tốt phi phương

Tiền duyên đã định hậu duyên nhỡ nhàng

Ghét quân Tô Định bạo tàn

Ghét phường cướp nước ngang tàng hại dân

Muốn cùng chầu kết duyên nhân

Lòng son đã quyết lìa thân cũng đành

Thân nữ nhi thù nhà nợ nước

Cùng Trưng Vương cất bước ra đi

Kiếm cung tập luyện ngại gì

Đã cam tấc dạ liều thì một phen

Đôi song kiếm diệt quân xâm lược

Đánh kẻ thù hại nước hại dân

Đứng lên tập hợp nghĩa quân

Giúp dân cứu nước dẹp quân bạo tàn

Tiệc tháng ba vào ngày mười bảy

Công đức bà dân chúng chẳng quên

Tiên La xây điện lập đền

Nhớ ơn Chầu bát thờ trên Thái Bình

Ngôi đền thờ anh linh cổ tự

Nét son vàng rực rỡ tố linh

Hôm nay tấu bản văn trình

Bát Nạn công chúa độ trì chứng minh.

Bản 4: 

Miễu:

Việt Nam thuở dưới quyền Đông Hán

Giang sơn ta ảm đạm thê lương

Giận thay Tô Định bạo cường

Đem quân dày séo quê hương cõi bờ

Thủa bấy giờ có nhà họ Vũ

Nẩy chồi lan một nụ xinh tươi

Nhụy phong, trang khuyết tuổi mười

Thơ văn xem cũng ít người khôn so

Lực cử đinh dành cho nữ kiệt

Đường kiếm hoa khoanh nguyệt rạch mây

Thống:

Tuổi xuân vừa độ trăng đầy

Môi son mắt phượng, má hây tuyết hồng

Nét ngọc trong sánh cùng trăng nước

Tô Định kia muốn ước duyên hài

Từ thân quyết một liều hai

Lẽ đau lại gả cho loài súc sinh

Tô Định nổi bất bình sấm sét

Tin cha già lửa đốt dầu sôi

Phạm Hương chàng đã qua đời

Thét đòi nợ máu vùng đôi kiếm thần

Bình:

Máu thù ngập đôi chân nữ kiệt

Tấm áo xanh máu huyết phủ đầy

Tay thần phá mấy vòng vây

Gót tiên mải miết trời mây tối dần

Băng tới bến thấy thuyền nan nhỏ

Đôi kiếm thần thuận gió chèo bơi

Lệ sầu reo giải sông xuôi

Chênh:

Nước non chất nặng vai người nữ chinh

Lâm dâm khấn cao minh soi tỏ

Cờn:

Nàn sòng dưới cửa từ bi

Mười bị sư bước chân nhẹ nhàng

CHúa Bát Nàn hiên ngang đứng giữa

Đôi mắt người như lửa hào quan

Thương dân lệ nhỏ đôi hàng

Trên vai nặng gánh giang sơn chưa đền

Bỗng cửa thiền trời liền tối lại

Thắp nhang thơm trước vái phật trời

Sau là từ tạ dân nuôi

Nói xong kiếm bạc chém đôi quân thù

Xá:

Trận huyết chiến bụi mà trời đất

Chúa Bát Nàn nhờ phật độ cho

Một mình chém giết bao thù

Xông pha giữa đám quân thù tên bay

Vung kiếm bạc đôi tay đã mỏi

Phá vòng vây thẳng lối ra sông

Hiếu trung trọn vẹn dãi cùng trời cao

Lấy kiếm bạc thân đào tự sát

Gốc thông kia ghi tạc sử xanh

Nhịp một:

Bát Nàn đại tướng nổi danh

Tháng ba mười bảy năm Dần về tiên

Dân nhớ ơn lập đền phụng sự

Phật ban cho nhị tự “tối linh”

Bảng vàng cứu nước thơm danh

Gươm thiêng để lại sử xanh muôn đời

Tiên La tự cảnh chùa vời vợi

Ai có lòng ngõ lối thênh thang

Thiện nam tín nữ bốn phương

Dồn:

Nhớ ngày hội Đức Bát Nàn vãng lai

Đệ tử nay dâng bản văn tiến

Công đức kia trời biển còn mang

Anh lĩnh rực rỡ nét vàng

Dấu thiêng ghi để muôn vàn đời sau.

Bài viết liên quan
03 4545 5959
×

ĐĂNG KÝ TƯ VẤN OẢN LỄ MIỄN PHÍ

    ×

    CHỈ ĐƯỜNG

    Phone Tin nhắn MESSAGE ZALO CHAT Địa chỉ